BÀI TUYÊN TRUYỀN LỊCH SỬ 75 NĂM THÀNH LẬP ĐẢNG BỘ HUYỆN BẢO THẮNG (15/10/1947-15/10/2023)
ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
LỊCH SỬ 75 NĂM ĐẢNG BỘ HUYỆN BẢO THẮNG
(15/10/1948 15/10/2023)
-----------------
I. Đảng bộ huyện Bảo Thắng ra đời
1- Hoàn cảnh ra đời của Đảng bộ huyện
Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, thực dân Pháp đã công khai phản bội Hiệp định sơ bộ ngày 06/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946. Ngày 17 - 18/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị bất thường dưới sự chủ tọa của Hồ Chủ tịch đã quyết định phát động cả nước kháng chiến và đề ra đường lối, nhiệm vụ, mục tiêu kháng chiến.
Đêm 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đáp lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch và chỉ thị toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng, dưới sự lãnh đạo của Ban cán sự Đảng, tỉnh Lào Cai tập trung giải quyết những khó khăn, tích cực chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp.
Tháng 10/1947, thực dân Pháp mở cuộc hành quân lớn đánh lên Việt Bắc, chúng nhanh chóng đánh chiếm Bát Xát, Sa Pa và thị xã Lào Cai, chiến sự tiếp tục diễn ra ngày càng quyết liệt. Từ tháng 11/1947 đến tháng 01/1948, ta và địch giành giật nhiều vị trí ở vùng Phố Lu và bên hữu ngạn sông Hồng thuộc các xã Cam Đường, Gia Phú, Xuân Giao. Cuối tháng 02/1948, tỉnh Lào Cai bị giặc Pháp chiếm đóng hoàn toàn.
Sau hội nghị tháng 3/1948 tại Lục Yên (Yên Bái), Tỉnh ủy Lào Cai tổ chức 03 tổ xung kích vào hậu địch. Tổ 1 do đồng chí Thịnh làm tổ trưởng, có nhiệm vụ vào xây dựng cơ sở ở Bắc Hà. Tổ 2 do đồng chí Kim Hải làm tổ trưởng, đi theo hướng Lương Sơn, Làng Mai - Thèn Phàng và Bảo Thắng. Tổ 3 do đồng chí Nguyễn Đức Thắng làm tổ trưởng, tiến theo đường Châu Quế - Võ Lao - Xuân Giao - Gia Phú - Cam Đường. Ngày 20/4/1948, ba tổ cán bộ lên đường. Sau hơn chục ngày len lỏi vừa đi vừa tìm đường, tổ 3 đã đến được Soi Cờ. Cùng thời gian này, tổ 2 cũng vào tới Làng Lân - Thái Niên. Đồng chí Nguyễn Đức Thắng bắt liên lạc được với ông Ngô Hữu Ngôn, một người dân có cảm tình với cách mạng và có uy tín với dân ấp, được giáo dục giác ngộ, ông Ngôn đã trở thành người giao thông liên lạc của tổ cách mạng Bảo Thắng. Từ điểm tựa Soi Cờ, ta phát triển cơ sở ra các làng người Dao xung quanh và các làng người Tày phía Cam Đường. Cơ sở kháng chiến bước đầu được xây dựng và phát triển ở Bảo Thắng. Đến tháng 5/1948, đồng chí Lê Đức Bình, Tỉnh ủy viên - được Tỉnh uỷ phân công vào trực tiếp chỉ đạo phong trào vùng hậu địch. Đoàn cán bộ của huyện Bảo Thắng được tăng cường các đồng chí: Trần Long, Tường Loan, Kim Khai (tức Hoàng Quốc Bảo), công tác xây dựng cơ sở ở Bảo Thắng phát triển khá mạnh.
Từ tháng 8/1948, thực dân Pháp tăng cường các cuộc hành quân tuần tiễu, thăm dò, đẩy mạnh các hoạt động do thám, gián điệp, nhất là vùng thấp dọc sông Hồng, đặc biệt là khu vực thuộc huyện Bảo Thắng. Trước tình hình đó, Tỉnh uỷ Lào Cai tăng cường cho khu cơ sở Soi Cờ, Soi Giá một trung đội võ trang. Do thấy tình hình phong trào ở đây lên cao, đơn vị võ trang chủ quan, mất cảnh giác đưa người lên Vạn Hoà, Tả Thàng tiến hành diệt tề. Việc không thành, đồng chí Kim Hải - tổ trưởng tổ cán bộ hoạt động ở Cam Đường cùng đi đã hy sinh. Liền sau đó, địch đưa một trung đội võ trang về lùng sục, khủng bố ác liệt vùng Soi Cờ, Soi Giá, Gốc Bưởi. Trong đợt càn này, địch bắn chết 14 người dân ở hai thôn Soi Cờ, Soi Giá, trong đó có ông Ngô Hữu Ngôn, người giao thông liên lạc đầu tiên của huyện. Chúng đốt 8 nhà ở Soi Cờ, 22 nhà ở Soi Giá và 8 nhà ở Gốc Bưởi.
Nhằm tăng cường lãnh đạo cho vùng hậu địch, tháng 9/1948, tỉnh bổ sung một đoàn cán bộ gồm 14 đồng chí, trong đó có đồng chí Hoàng Quy (Bí thư Tỉnh uỷ). Được tăng cường lãnh đạo, cơ sở cách mạng trong quần chúng ở Bảo Thắng phát triển mạnh.
2 - Chủ trương và quyết định thành lập Đảng bộ huyện của Tỉnh ủy
Được các đồng chí đảng viên dìu dắt, giúp đỡ giác ngộ lý tưởng cộng sản, một số quần chúng nòng cốt của phong trào cách mạng ở địa phương được vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng. Ngày 10/10/1948, Chi bộ Đảng xã Cam Đường được thành lập tại nhà ông Đinh Văn Lộc (tức Tài) thôn Soi Lần, gồm 8 quần chúng ưu tú là người địa phương. Đây cũng là một trong những chi bộ nông thôn đầu tiên được thành lập ở tỉnh Lào Cai. Đồng chí Tô Vũ (tức Hoàng Hoà) được tỉnh phân công trực tiếp làm Bí thư Chi bộ. Cũng trong thời gian này, ở hai xã (Xuân Giao, Gia Phú) cũng thành lập được 01 chi bộ do đồng chí Kim Khai (tức Hoàng Quốc Bảo) làm Bí thư; 01 chi bộ ở Phong Niên do đồng chí Thủy làm Bí thư; 01 chi bộ ở Xuân Quang do đồng chí Thắng làm Bí thư.
Trên cơ sở phong trào cách mạng phát triển trong toàn huyện lên cao, đặc biệt là việc thành lập được chi bộ Đảng ở cơ sở nhằm đưa phong trào cách mạng ở địa phương lên một giai đoạn mới, trước yêu cầu cần phải có một tổ chức lãnh đạo, ngày 15/10/1948, Tỉnh ủy Lào Cai ban hành văn bản số 362-BC/TU thể hiện rõ chủ trương: “Sau khi phát động võ trang tranh đấu sẽ lập ngay Huyện ủy Bảo Thắng, chỉ định như sau: Đồng chí Long: Bí thư; Đồng chí Kim Khai, Thắng, Sáng: Huyện ủy viên”. Ngay sau khi có chủ trương của Tỉnh ủy, các đồng chí cán bộ chủ chốt được phân công nhiệm vụ đã đi vào hoạt động, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng của địa phương. Tháng 12/1948, Ban Chấp hành Đảng bộ Bảo Thắng được bổ sung đồng chí Khuất Quang Chiến.
Nhằm tiếp tục đưa sự nghiệp kháng chiến ở địa phương phát triển, ngày 15/10/1948, hội nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy họp nhận định tình hình địch - ta và quyết định cuối tháng 10/1948, đưa 2 trung đội cảnh vệ vào hậu địch cùng trung đội du kích tập trung của Bảo Thắng để tổ chức thành Đại đội Độc lập chuẩn bị cho việc phát động quần chúng đấu tranh võ trang ở Cam Đường - Gia Phú - Xuân Giao. Hội nghị còn chủ trương đưa hai trung đội của Đại đội Độc lập luồn vào hoạt động từ Điện Quang (Lục Yên) lên Xuân Quang - Phong Niên nhằm phân tán lực lượng địch, hỗ trợ cho vùng Cam Đường - Gia Phú - Xuân Giao khi nổi dậy võ trang. Đến tháng 11/1948, toàn huyện Bảo Thắng hầu hết đã có cơ sở cách mạng. Ở Cam Đường - Gia Phú - Xuân Giao, phong trào cách mạng phát triển mạnh. Từ Bảo Thắng, cơ sở cách mạng phát triển sang các vùng lân cận.
3. Ý nghĩa của việc thành lập Đảng bộ huyện
Đảng bộ huyện Bảo Thắng ra đời (ngày 15/10/1948) đánh dấu sự trưởng thành lớn mạnh, bước ngoặt của phong trào cách mạng địa phương. Để lại nhiều bài học quý báu về công tác dân vận, về tổ chức xây dựng Đảng, về việc lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, bảo vệ chính quyền cách mạng, cũng như việc xây dựng các tổ chức chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương,.. Từ đây, phong trào cách mạng của huyện chính thức có một bộ máy của Đảng lãnh đạo, hướng phong trào cách mạng của huyện hoà vào dòng thác cách mạng chung của tỉnh Lào Cai và cả nước, hướng theo mục tiêu lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, văn minh và giàu đẹp.
II. Đảng bộ Bảo Thắng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và tiễu phỉ
1. Đảng bộ lãnh đạo đấu tranh chống Pháp giải phóng quê hương
Ngày 25/11/1948, Tỉnh ủy triệu tập hội nghị cán bộ quân - dân - chính trong hậu địch, họp tại thôn Đồng Hầm (xã Xuân Giao), chọn Cam Đường dẫn đầu phát động để thúc đẩy phong trào Gia Phú - Xuân Giao cùng tiến lên, làm tiền đề cho việc phát động phong trào rộng khắp ra toàn tỉnh.
Đầu tháng 12/1948, công tác chuẩn bị phát động đấu tranh võ trang đang ở thời kỳ sôi nổi, khẩn trương, lại xảy ra việc chuyển đạn ở Cam Đường bị lộ. Tên Bờ-ruy-sếch (Bruchec), quan một, đồn trưởng đồn Bến Đền mang quân phục kích cán bộ ta ở ngòi Cam Đường. Tiếp đó đội tuần tra của địch phục kích bắt trượt cán bộ và giao thông viên của ta trên đường từ Cánh Địa sang Phong Niên. Liền sau đó chúng bắt một số dân Cam Đường về Lào Cai tra hỏi. Bọn gián điệp, chỉ điểm tăng cường hoạt động. Cùng lúc này, chúng bắt đồng chí Hoàng Sào, một thanh niên ưu tú của Đảng ở thôn Hẻo, thuộc Chi bộ Cam Đường, dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ, tra tấn cực hình, nhưng đồng chí một mực không khai. Địch đê hèn sát hại đồng chí khi tiếng súng Cam Đường vừa nổ. Liệt sĩ Hoàng Sào đã nêu gương sáng cho mọi người dân noi theo.
Cuộc đấu tranh vũ trang ở Bảo Thắng nổ ra từ ngày 13/12/1948 đến ngày 15/01/1949 thu được thắng lợi. Khu căn cứ Cam Đường - Gia Phú - Xuân Giao hình thành rộng 300km2. Trong thời gian này, ta củng cố thêm một bước các tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng, tích cực chuẩn bị chống càn quét, vừa đẩy mạnh mọi mặt hoạt động, vừa chăm lo đến đời sống nhân dân. Tổ chức một trường tiểu học tại huyện Lục Yên để dạy cho những học sinh tản cư từ Lào Cai về, với 47 học sinh và một giáo viên.
Cuộc đấu tranh vũ trang ở Cam Đường thắng lợi khẳng định chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng đối với công tác vùng hậu địch; đó là sự kiên trì bám đất, nắm dân, vượt qua mọi khó khăn, thử thách đầy nguy hiểm của mỗi cán bộ, đảng viên được phân công vào hậu địch xây dựng phong trào. Thắng lợi đó còn thể hiện lòng quyết tâm đi theo Đảng của nhân dân các dân tộc địa phương.
Đầu tháng 3/1949, Bộ Tư lệnh Liên khu 10 chủ trương mở chiến dịch Lao - Hà nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, tạo điều kiện cho vùng hậu địch phát triển lực lượng, duy trì phong trào. Tỉnh ủy chỉ đạo Huyện ủy Bảo Thắng đẩy mạnh công tác địch vận, tuyên truyền vận động những binh lính là người Việt quay súng trở về với cách mạng, chọn đồn Phố Lu làm điểm địch vận.
Đồn Phố Lu lúc này chúng có một đại đội lính bảo an và một trung đội lính âu Phi, do tên đồn trưởng quan hai Pháp Va-lét Ô-vi-li-ê (Valette Olivie) chỉ huy. Ngoài việc bắn giết dân chúng khi đi càn quét, chúng còn hành hạ binh sĩ dưới quyền. Nắm bắt được mâu thuẫn trên, tổ chức ta đã liên lạc, dần dần giác ngộ được tên đồn phó Nông Dư Trang (người Nùng, xã Phong Niên). Thời cơ đã đến, đêm 05/03/1949, khi bộ đội chủ lực từ Lương Sơn tiến lên vây sát đồn Phố Lu, Châu uý Nông Dư Trang cùng một số bảo an trong đồn đã giết chết tên đồn trưởng, mở cổng đồn đón bộ đội ta vào tiếp quản. Sau đó ông cùng 43 lính bảo an mang súng quay về với cách mạng. Ta thu một súng ngắn, một tiểu liên và toàn bộ súng trường, lựu đạn, đạn dược trong đồn. Trận địch vận hạ đồn Phố Lu có tiếng vang lớn không những đối với phân khu Lào Cai mà còn có ảnh hưởng rộng trong cả khu Tây Bắc.
Ngày 12/3/1949, các đơn vị võ trang cảnh vệ và du kích Cam Đường phối hợp tấn công đồn Làng Cù (Xuân Giao), Làng Nhớn (Cam Đường), buộc địch phải tháo chạy về thị xã. Hai xã Cam Đường và Xuân Giao không còn bóng giặc. Cùng lúc này, đơn vị chủ lực luồn vào đánh chiếm Tùng Quang và Cốc Sâm (xã Phong Niên). Liền sau đó, ta chiếm đồn Bản Lầu, tấn công đồn Thấp Bản Phiệt. Cùng thời gian này, tại nhiều nơi trong tỉnh ta đã giành thắng lợi.
Từ tháng 9 đến cuối tháng 10/1949, địch tổ chức nhiều cuộc hành quân khủng bố, phục kích đón bắt cán bộ giao thông của ta. Cùng lúc này, tên Định Chính (Lương Văn Khuê), Huyện đội trưởng Bảo Thắng phản động. Trước tình hình trên, Tỉnh uỷ chủ trương chuyển khu căn cứ Cam Đường - Gia Phú - Xuân Giao từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh hợp pháp để duy trì cơ sở, giữ vững phong trào. Được sự chỉ đạo sát sao của tỉnh, để chủ động lãnh đạo công tác vận động nhân dân ở khu vực trung tâm huyện lỵ, ngày 25/10/1949, Huyện uỷ đã tách Chi bộ ghép ra thành 2 chi bộ là: Chi bộ xã Phố Lu và Chi bộ khối cơ quan huyện. Đến tháng 11/1949, toàn huyện đã thành lập được 6 chi bộ.
Trong 2 ngày (21-22/12/1949), địch cho quân từ Võ Lao lên phối hợp với quân ở Phố Lu sang, tiến theo đường Tả Hà - Đồng Hầm đánh vào xã Xuân Giao, úp làng Phẻo, chiếm đóng làng Mường, đồng thời chúng tập trung 200 quân đánh vào Bến Đền. Phía Cam Đường chúng dùng một lực lượng âu Phi và khố đỏ tiến xuống Gia Phú. Ngày 22/12/1949, địch vào đốt làng Cố Hải, ra Khe Địa rồi lên khủng bố Soi Cờ; một cánh quân từ Làng Bay tiến xuống đốt phá Soi Giá và Làng Vàng. Ngày 23/12/1949, địch từ Làng Chưng tiến ra đánh úp Đồng Hầm.
Sau gần 7 tháng liên tục càn quét, khủng bố của địch, ta đã chuyển dần khu võ trang Bảo Thắng sang hoạt động bí mật.
Nhằm đưa cuộc kháng chiến toàn quốc bước sang một giai đoạn mới, đầu năm 1050, Ban Thường vụ Trung ương chỉ thị cho Khu 10 mở Chiến dịch Lê Hồng Phong màn một, lấy Lào Cai làm hướng chính. 18 giờ ngày 08/02/1950, trung đoàn l02 nổ súng tấn công đồn Phố Lu, mở đầu cho Chiến dịch Lê Hồng Phong màn một. Sau 5 ngày 6 đêm chiến đấu quyết liệt, ta đã đánh lui 8 đợt viện binh của địch từ Lào Cai xuống, từ Văn Bàn sang, bắn cháy một máy bay Đacôta. Đến ngày 13/02/1950, ta chiếm được đồn Phố Lu, tiêu diệt toàn bộ Ban chỉ huy ở trong đồn. Trong trận đánh công kiên lớn này, bộ đội ta được nhân dân địa phương tiếp tế lương thực, thực phẩm, vận chuyển đạn dược cho tác chiến; diệt 122 tên trong đó có 03 quan hai, 01 quan một, 25 lính Pháp, 02 dõng, 04 khố đỏ, 04 đặc vụ Tưởng; thu 01 súng cối 81; 01 súng cối 60; 03 đại liên; 09 trung hên, 12 tiểu liên, 149 súng trường, 02 súng ngắn; 03 đài vô tuyến điện; 200 dù và 10 tấn đạn dược.
Sau chiến thắng Phố Lu, nhân dân vô cùng phấn khởi đã làm những bè mảng bằng thân cây chuối cắm cờ đỏ sao vàng và dòng chữ báo tin Phố Lu đã giải phóng, thả xuống sông Hồng báo cho nhân dân miền xuôi biết tin vui này. Đến cuối tháng 3/1950, màn một chiến dịch Lê Hồng Phong kết thúc thắng lợi.
Sang tháng 7 và tháng 8/1950, giặc Pháp mở nhiều cuộc càn quét vào vùng căn cứ Cam Đường - Gia Phú - Xuân Giao, Phong Niên. Ta đã phá tan âm mưu "Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt" của chúng. Ở những xã mới giải phóng, Huyện uỷ củng cố lại các cấp uỷ, chính quyền và các đoàn thể. Phong trào diệt giặc dốt, giặc đói được chính quyền các cấp quan tâm. Chỉ trong thời gian ngắn, Bảo Thắng đã tổ chức được 3 trường học cấp I cho con em các dân tộc và 11 lớp bình dân học vụ; thành lập các tổ y tế đến các thôn bản tiêm phòng và phát thuốc cho nhân dân. Công tác văn hoá, tuyên truyền được đẩy mạnh, kêu gọi nhân dân đoàn kết, xây dựng nếp sống văn hoá mới.
Cuối tháng 7/1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới với hướng chính là Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Ở Lào Cai, ta mở chiến dịch Lê Hồng Phong màn II. Ngày 20/9/1950 ta giải phóng Bắc Hà, ngày 25/10/1950, ta tấn công, giải phóng Bản Phiệt, trực tiếp uy hiếp thị xã Lào Cai. Tối 01/11/1950, thị xã Lào Cai được giải phóng.
2. Đảng bộ lãnh đạo cuộc đấu tranh tiễu phỉ
Tuy thất bại nặng nề, nhưng với bản chất ngoan cố, thực dân Pháp không chịu từ bỏ dã tâm xâm lược và chống phá cách mạng Việt Nam. Gây phỉ là một trong những thủ đoạn mới của thực dân Pháp.
Thực hiện các chỉ thị của Tỉnh ủy Lào Cai, Đảng bộ và các cấp chính quyền huyện Bảo Thắng đã làm tốt công tác vận động quần chúng, tranh thủ những người có uy tín cao trong nhân dân, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân ở địa phương, triệt để phân hoá bọn phỉ, kêu gọi những người lầm đường trở về. Chú trọng xây dựng và củng cố các chi bộ Đảng, các tổ chức chính quyền, các đoàn thể quần chúng và lực lượng vũ trang địa phương, quan tâm giáo dục, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị cho nhân dân, từng bước nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân.
Thắng lợi trong Chiến dịch tiễu phỉ ở Lào Cai năm 1954 và đầu năm 1955 ta đã căn bản phá tan âm mưu thâm độc của đế quốc Pháp - Mỹ. Đó là thắng lợi của đường lối đúng đắn của Đảng, đặc biệt là việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở một vùng có nhiều dân tộc như huyện Bảo Thắng. Từ trong gian khổ đánh Pháp, tiễu phỉ, tình đoàn kết dân tộc ngày càng gắn bó, đây chính là sức mạnh của nhân dân các dân tộc trong huyện tiến hành sự nghiệp cách mạng ở địa phương.
3. Đảng bộ lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, củng cố và nâng cao vai trò của hệ thống chính trị, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân.
Sau ngày giải phóng Phố Lu, mặc dù phải liên tục chống bọn phản động trong việc thực hiện âm mưu gây phỉ của địch ở địa phương, Đảng bộ huyện đã ra sức củng cố chế độ dân chủ nhân dân, từng bước lãnh đạo nhân dân địa phương xây dựng cuộc sống mới.
Về chính quyền, Đảng bộ huyện đã chú ý kiện toàn chính quyền cấp xã, ủy ban kháng chiến hành chính các xã được kiện toàn đều do dân bầu. Sáp nhập bình dân học vụ với thông tin thành Ban văn hoá ở các xã. Đầu năm 1952, toàn huyện có 4 trường học với 14 giáo viên và 134 học sinh theo học ở các xã Vạn Hoà, Cam Đường, Gia Phú - Xuân Giao; có 48 lớp bình dân học vụ với 1.065 học viên. Huyện còn mở được các lớp đào tạo, bồi dưỡng giáo viên bình dân học vụ. Ở các làng, bản, những lớp học bổ túc được tổ chức, thu hút đông đảo thanh niên và trung niên tham gia.
Công tác xây dựng Đảng ở địa phương trong suốt thời kỳ này được Đảng bộ hết sức quan tâm. Đến đầu năm 1954, toàn Đảng bộ huyện có 7 chi bộ và 01 tổ đảng ở Vạn Hoà với 75 đảng viên, đây là lực lượng nòng cốt trong mọi phong trào cách mạng ở địa phương.
Công tác y tế được Đảng bộ đặc biệt quan tâm. Các phong trào "Bốn diệt" (diệt muỗi, diệt ruồi, diệt chấy rận, diệt chuột bọ) và "Ba sạch" (ăn sạch, uống sạch, ở sạch) được phát động sâu rộng trong các thôn bản. Đời sống vật chất, văn hoá được cải thiện, các hủ tục lạc hậu từng bước được hạn chế.
III. Đảng bộ huyện Bảo Thắng lãnh đạo khôi phục, phát triển kinh tế, cải tạo xã hội và bước đầu xây dựng CNXH (1955 - 1960).
1. Lãnh đạo khôi phục, phát triển kinh tế, tăng cường đoàn kết dân tộc, ổn định đời sống nhân dân sau kháng chiến chống Pháp (1955 - 1957).
Sau thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, Đảng bộ và nhân dân Lào Cai bắt tay vào tiến hành khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân. Tập trung giải quyết nạn đói, đảm bảo lương thực cho nhân dân, từng bước đưa nông dân vào làm ăn tập thể.
Đến giữa năm 1955 toàn huyện Bảo Thắng chỉ còn 13 tên phỉ lén lút hoạt động. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, tình hình Bảo Thắng ở thời điểm cuối năm 1954, đầu năm 1955 gặp không ít khó khăn phức tạp: Chiến tranh đã làm cho nhiều gia đình ly tán, ruộng đất bỏ hoang. Phần lớn các hộ nông dân trong huyện ở trong tình trạng thiếu đói, dịch bệnh. Hơn 90% dân số trong huyện mù chữ, các tệ nạn còn tồn tại khá nhiều; phương thức sản xuất cũ manh mún, lạc hậu. Đời sống trong nhân dân trong huyện rất cực khổ.
Đứng trước tình hình trên, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện xác định nhiệm vụ cấp bách trong lúc này là: Khẩn trương ổn định đời sống và tư tưởng cho nhân dân, trước hết, phải khắc phục tình trạng thiếu đói trầm trọng. Đầu năm 1955, huyện đã đề nghị với tỉnh cho vay lương thực, mậu dịch để cứu đói cho nhân dân. Phát động phong trào “nhường cơm sẻ áo”, “lá lành đùm lá rách” trong nhân dân.
Trước tình hình tư tưởng của nhân dân chưa đảm bảo ổn định, Đảng bộ đã chỉ đạo mở đợt tuyên truyền sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân về chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ cách mạng mới, đặc biệt là tăng cường giáo dục về chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng. Tinh thần tương trợ giữa các dân tộc đã được củng cố; nhiều người lầm đường theo Pháp, theo phỉ đã ra trình diện chính quyền, trở về gia đình làm ăn lương thiện. Một số gia đình ly tán trong chiến tranh cũng trở về quê hương yên tâm sản xuất.
Giữa năm 1956, tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai đã được khôi phục, mỏ Apatít đã bước vào hoạt động. Cầu Làng Giàng và đoạn đường sắt từ Làng Giàng đến mỏ Apatít được xây dựng đã tạo ra việc đi lại thuận lợi cho nhân dân trong huyện cũng như giao thương, phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội ở địa phương.
Đến năm 1957 toàn huyện có 6 trường phổ thông với 129 học sinh. Chương trình học bổ túc văn hoá được Đảng bộ huyện Bảo Thắng chỉ đạo thực hiện ở tất cả các xã, năm 1957 số người mù chữ trong toàn huyện chỉ còn 41%.
Trong thời gian này, Ban Y tế huyện đã nhanh chóng được củng cố về đội ngũ cán bộ chuyên môn và trang thiết bị y tế. Công tác phòng bệnh được chú trọng thường xuyên, không có dịch bệnh lớn xảy ra. Phong trào múa hát, diễn kịch của các đội văn nghệ xã diễn ra khá sôi nổi với chủ đề ca ngợi cuộc sống mới, con người mới đã thu hút đông đảo thanh niên nam nữ tham gia.
Bên cạnh đó, Đảng bộ huyện đã chú trọng đến công tác ổn định tình hình trật tự trị an, tăng cường trấn áp bọn phản động lén lút hoạt động. Đến đầu năm 1956, lực lượng phỉ ở Bảo Thắng đã cơ bản được dẹp trừ.
Cùng với công tác tuyên truyền, giáo dục đảng viên, công tác củng cố các cơ sở đảng và phát triển đảng viên mới được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo. Năm 1957, toàn Đảng bộ có 10 chi bộ với 98 đảng viên. Công tác xây dựng, củng cố các tổ chức đoàn thể cũng được Đảng bộ quan tâm. Các tổ chức: Nông hội, Hội Phụ nữ, Ủy ban Mặt trận huyện được thành lập.
Với những kết quả đạt được trong 3 năm đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện và sự chỉ đạo, quản lý của các cấp chính quyền từ huyện đến xã. Nhân dân các dân tộc huyện Bảo Thắng đã cùng nhau đoàn kết vượt lên khó khăn để hoàn thành những chỉ tiêu, kế hoạch do Đảng bộ đề ra.
2. Xóa bỏ các tàn dư của chế độ cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới, phát triển kinh tế - xã hội (1958 - 1960)
Đến cuối năm 1958, toàn huyện xây dựng được 274 tổ đổi công. Trong năm 1958, ngành thương nghiệp huyện đã tích cực thu mua nông lâm sản và bán hàng hoá cho nhân dân. Ngành thủy lợi đã tập trung vào củng cố hệ thống mương phai.
Công tác giáo dục, y tế tiếp tục có những chuyền biến mới... Các tệ nạn xã hội giảm hơn những năm trước. Công tác trật tự trị an được giữ vững. Chính quyền dân chủ nhân dân ngày càng thể hiện bản chất ưu việt của mình.
Ngày 24/01/1959, Đại hội toàn thể đảng viên trong toàn Đảng bộ huyện Bảo Thắng lần thứ I khai mạc. Đây là Đại hội đầu tiên của Đảng bộ Bảo Thắng kể từ ngày thành lập, Nghị quyết Đại hội đánh dấu bước trưởng thành của Đảng bộ, khẳng định sự chuyển hướng lãnh đạo kịp thời của Đảng bộ phù hợp với thời điểm mới của cách mạng. Đại hội lần thứ I đã kiện toàn được Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 9 đồng chí. Đồng chí Vũ Hiển Mô được bầu làm Bí thư Đảng bộ.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ I và Nghị quyết hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh về củng cố, xây dựng tổ đổi công, từng bước đưa tổ đổi công lên hợp tác xã, cuối tháng 3/1959, huyện Bảo Thắng tiến hành xây dựng thí điểm hợp tác xã Làng Dạ.
Tháng 4/1959, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 16 (khoá II) họp ra nghị quyết về xây dựng hợp tác xã nông nghiệp và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Tháng 10/1959, cùng với cả tỉnh, huyện Bảo Thắng chính thức bước vào cuộc vận động hợp tác hoá kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ. Đến tháng 02/1960, cuộc vận động đã hoàn thành thắng lợi trong toàn huyện.
Từ ngày 20 - 26/5/1960, Đảng bộ huyện Bảo Thắng tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ II. Đại hội đã tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện, nêu rõ ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi của cuộc vận động cùng những thiếu sót trong quá trình thực hiện; chỉ rõ việc thực hiện thắng lợi Cuộc vận động hợp tác hoá kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ bước đầu thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động và thiết lập quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Nhờ có những phương hướng và biện pháp tích cực, phong trào hợp tác hoá ở huyện Bảo Thắng trong năm 1960 được củng cố và tiếp tục phát triển. Xã viên hợp tác xã yên tâm, phấn khởi lao động sản xuất.
Sự nghiệp y tế, giáo dục, văn hoá của huyện Bảo Thắng đã chuyển biến nhanh chóng. Phong trào bình dân học vụ, xoá mù chữ được đẩy mạnh ở các xã. Bảo Thắng được tỉnh công nhận thực hiện vượt mức chỉ tiêu kế hoạch về xóa nạn mù chữ. Năm học 1959 - 1960, toàn huyện có 14 trường phổ thông với tổng số 413 học sinh; huyện đã thành lập được hệ thống lớp học vỡ lòng ở hầu hết các xã.
Đội ngũ cán bộ y tế được tăng cường hàng năm, bệnh xá huyện tăng thêm giường bệnh. Đến cuối năm 1960, toàn huyện đã xây dựng được 8 cơ sở điều trị, bao gồm bệnh xá, trạm xá, nhà hộ sinh. Ở các xã đều có cán bộ y tế và đội ngũ vệ sinh viên. Ý thức vệ sinh phòng bệnh trong nhân dân được nâng lên. Ở hầu hết các xã trong huyện đã xây dựng được Ban Công an xã.
Đảng bộ Bảo Thắng còn chú trọng đặc biệt tới công tác xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Năm 1960 toàn đảng bộ có 15 chi bộ với 210 đảng viên.
Thắng lợi của cuộc vận động cải tạo xã hội, cộng với những chuyển biến về kinh tế, văn hoá, y tế, giáo dục những năm 1958 - 1960 đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng bộ huyện Bảo Thắng trong các cuộc vận động và phong trào lớn, bắt rễ sâu hơn vào lòng quần chúng thông qua hệ thống cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên trong huyện.
IV. Lãnh đạo thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1961 1965)
1. Chủ trương và biện pháp
Tháng 3/1961, Đảng bộ huyện Bảo Thắng tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ III. Nghị quyết đại hội chỉ rõ những nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm (1961 1965) là: "Ra sức củng cố, phát triển phong trào hợp tác hoá, chủ yếu là hợp tác hoá nông nghiệp, đồng thời chú trọng phát triển nông nghiệp một cách toàn diện mạnh mẽ và vững chắc. Coi sản xuất nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm của huyện. Lấy sản xuất lương thực làm khâu chính trong sản xuất nông nghiệp. Chú ý đẩy mạnh chăn nuôi, phát triển cây công nghiệp và nghề rừng. Đồng thời khuyến khích phát triển thủ công nghiệp và nghề phụ gia đình. Đẩy mạnh công tác thương nghiệp, ra sức phát triển văn hoá, y tế, giáo dục. Chăm lo hơn nữa đời sống nhân dân, nâng cao cảnh giác cách mạng, đảm bảo trật tự trị an địa phương: Ra sức xây dựng và củng cố hệ thống chính trị và xây dựng lực lượng vũ trang, bán vũ trang, đủ sức làm nhiệm vụ bảo vệ vững chắc địa bàn”.
2. Kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 1965)
Thực hiện chủ trương của Đảng, từ cuối năm 1961 đến năm 1965, huyện Bảo Thắng tổ chức nhiều đợt đón nhận đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế mới với trên 4 nghìn hộ và trên 25 nghìn nhân khẩu. Đồng bào được đưa về hầu hết các xã của huyện và được tổ chức thành các hợp tác xã khai hoang độc lập. Một số nơi đồng bào được tổ chức ở xen ghép trong các hợp tác xã đã có trước. Tình đoàn kết giữa đồng bào miền xuôi và miền ngược không ngừng được củng cố.
Thời gian này, các cơ sở kinh tế quốc doanh được thành lập. Huyện đã sản xuất được một số mặt hàng xuất khẩu như: chuối, cam, quýt, tơ tằm,...
Hoạt động trên các lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, giáo dục và y tế trong giai đoạn này cũng có sự chuyển biến vượt bậc. Sự nghiệp giáo dục trong 5 năm phát triển mạnh. Năm 1961, huyện Bảo Thắng đã được Bộ Giáo dục khen thưởng về thành tích phát triển giáo dục. Đến năm học 1964-1965, toàn huyện có 29 trường với gần 2.000 học sinh. Năm 1965 hầu hết các xã của huyện Bảo Thắng có trường phổ thông cấp 1. Các xã: Phố Lu, Cam Đường, Gia Phú, Tằng Loỏng đã có trường cấp II. Công tác thanh toán nạn mù chữ và bố túc văn hoá tiếp tục được đẩy mạnh. Năm 1965, Bảo Thắng được Bộ Giáo dục khen và công nhận là một trong những huyện miền núi đi đầu trong phong trào xoá nạn mù chữ và bổ túc văn hoá, được tặng Huân chương Lao động hạng Ba.
Đến năm 1965, mạng lưới y tế từ huyện xuống xã và khu vực đã được hình thành. Bệnh xá huyện được nâng cấp thành bệnh viện huyện với 32 giường bệnh. Ở hầu hết các xã đều có cơ sở khám chữa bệnh cho nhân dân. Công tác phòng bệnh được quan tâm, chú trọng.
3. Tăng cường bảo vệ trị an, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị vững mạnh
Giai đoạn 1961-1965, huyện Bảo Thắng là đơn vị đi đầu trong phong trào bảo vệ trị an của tỉnh Lào Cai. Huyện đã tổ chức các đợt giáo dục nhằm nâng cao cảnh giác cách mạng cho quần chúng. Năm 1963, có 7 xã của huyện Bảo Thắng được Hồ Chủ Tịch tặng Bằng khen về phong trào bảo vệ trị an.
Tháng 3/1961, Bộ Chính trị ra nghị quyết về đợt sinh hoạt chính trị tư tưởng, lấy tên là: "Chỉnh huấn mùa xuân". Qua các lớp chỉnh huấn tại tỉnh, huyện, cán bộ, đảng viên đã có sự chuyển biến rõ nét về nhận thức nhiệm vụ cách mạng cũng như khả năng công tác.
Đến cuối năm 1965, toàn Đảng bộ có 25 chi bộ cơ sở với 664 đảng viên. Từ năm 1961 đến năm 1965, Đảng bộ Bảo Thắng đã tổ chức 4 kỳ đại hội. Đồng chí Hoàng Việt Sơn được tín nhiệm bầu làm Bí thư Đảng bộ từ năm 1961 đến năm 1964. Năm 1965, đồng chí Phạm Văn Chấn được bầu làm Bí thư Đảng bộ.
V. Đảng bộ huyện Bảo Thắng chuyển hướng lãnh đạo từ thời bình sang thời chiến (1965 - 1975)
1. Lãnh đạo chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ lần thứ nhất
Trước âm mưu và hoạt động của đế quốc Mỹ dùng không quân đánh phá sâu vào hậu phương miền núi phía Bắc nước ta, thực hiện đạo của Tỉnh ủy, cuối tháng 7 đầu tháng 8 năm 1965, Đảng bộ Bảo Thắng tiến hành công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện; xác định rõ âm mưu phá hoại của đế quốc Mỹ và nhiệm vụ nặng nề của toàn dân trong lúc này là vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa chi viện cho cách mạng miền Nam.
Công việc trước mắt được Đảng bộ chỉ đạo là công tác thực hiện phòng không sơ tán, khẩn trương triển khai công tác đào đắp công sự, hầm hố phòng không. Đảng bộ chỉ thị cho các ngành vận tải, bưu điện, truyền thanh, y tế, văn hoá, giáo dục, lương thực... phải tổ chức tốt mạng lưới và phương thức hoạt động phù hợp để phục vụ tốt cho việc sơ tán của nhân dân.
Quán triệt Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 12 và các chỉ thị của tỉnh, từ ngày 9 đến 12/3/1966, Đảng bộ Bảo Thắng tiến hành tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ VII. Đại hội đã bầu 23 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ khóa VII. Đồng chí Phạm Văn Chấn được bầu làm Bí thư Huyện ủy, các đồng chí: Hà Văn Hiền, Trần Văn Sẩu được bầu làm Phó Bí thư Huyện ủy.
Đến giữa năm 1966, công tác sơ tán của huyện cơ bản đã hoàn thành, công tác phòng không chiến đấu tiếp tục được đẩy mạnh ở các đơn vị và cơ sở. Hơn 2.000 hầm hố và hàng chục km giao thông hào trong huyện được đào đắp, hàng trăm trận địa và vị trí phòng chống máy bay địch được xây dựng, lực lượng bộ đội địa phương và dân quân túc trực ngày đêm canh gác và sẵn sàng chiến đấu…
Trong 4 năm chống chiến tranh phá hoại của Mỹ lần thứ nhất (1965 - 1968), quân và dân huyện Bảo Thắng đã nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm đánh Mỹ. Mỗi lần máy bay xâm phạm vùng trởi Bảo Thắng, lực lượng phòng không địa phương đánh trả quyết liệt. Qua cuộc chiến tranh, lực lượng vũ trang huyện Bảo Thắng đã trưởng thành nhanh chóng. Lực lượng phòng không của huyện đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ địa phương. Đảm bảo an toàn cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Nhân dân các dân tộc Bảo Thắng với tinh thần “Thóc không thiếu một cân,...” phục vụ tiền tuyến chống Mỹ cứu nước (1966) Thanh niên Bảo Thắng luyện tập chuẩn bị “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” tháng 6/1968
2. Đảng bộ lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng hậu phương về mọi mặt
2.1. Củng cố hợp tác xã, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp.
Thắng lợi của nhân dân miền Bắc trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, cùng với thắng lợi của quân dân miền Nam trong cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1968 đã làm cho đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố chấm dứt mọi hành động chống phá miền Bắc Việt Nam, chấp nhận đàm phán với ta tại hội nghị Pari vào ngày 01/11/1968.
Trong 5 năm (1966 - 1970), dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, căn cứ nghị quyết Đại hội Đảng bộ các khoá: VII, VIII, IX, X, huyện Bảo Thắng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội.
Phong trào hợp tác hoá của huyện tiếp tục được củng cố và phát triển, thu hút đông đảo nông dân tham gia. Đến năm 1970, toàn huyện có hơn 3.000 hộ vào hợp tác xã, chiếm 90% số hộ nông dân; 54 hợp tác xã, trong đó có 32 hợp tác xã bậc cao. Từ năm 1966 đến năm 1970, huyện Bảo Thắng tiếp tục đón nhận gần 300 hộ nông dân từ các tỉnh miền xuôi lên xây dựng vùng kinh tế mới, diện tích trồng trọt các năm không ngừng tăng lên; đàn gia súc được chú trọng phát triển.
Trong lúc nhân dân huyện Bảo Thắng ra sức hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ II thì ngày 02/9/1969 Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Biến đau thương thành hành động cách mạng, toàn Đảng, toàn dân trong huyện dấy lên phong trào ra sức lao động sản xuất làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ ngày 14 đến ngày 17/02/1971, Đảng bộ Bảo Thắng đã tổ chức đại hội đại biểu lần thứ XI. Đại hội đã bầu 25 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XI. Đồng chí Trần Văn Sẩu tiếp tục được tín nhiệm bầu làm Bí thư Huyện ủy.
Năm 1971, có hai đợt mưa lớn kéo dài xảy ra ở nhiều nơi trong đó có huyện Bảo Thắng đã làm thiệt hại lớn về kinh tế và ảnh hưởng đến đời sống Nhân dân. Sau trận lũ lụt, Đảng bộ huyện đã chỉ đạo các địa phương nhanh chóng khắc phục khó khăn, ổn định sản xuất. Từ năm 1973 đến 1975, sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh cả về năng suất và sản lượng. Năm 1975, có 96,5% số hộ nông dân của huyện vào hợp tác xã. Toàn huyện xây dựng được 64 hợp tác xã. Hệ thống cửa hàng hợp tác xã mua bán được thiết lập từ huyện tới tất cả các xã phục vụ đời sống nhân dân.
Giai đoạn 1970 - 1975, Đảng bộ huyện Bảo Thắng chỉ đạo các hợp tác xã tăng cường công tác xây dựng cơ bản, xây dựng cơ sở vật chất, áp đụng khoa học kỹ thuật và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn (sân phơi, nhà kho, lán đập lúa), mua sắm các nông cụ cải tiến, từng bước cơ khí hoá nông nghiệp...; tiến hành làm đường giao thông nông thôn, xây dựng thêm các công trình thuỷ lợi. Đến năm 1975, đã có đường ô tô từ huyện xuống tất cả các xã.
2.2. Phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
Trong 10 năm (1965 - 1975) ngành công nghiệp địa phương đã có bước phát triển, đóng góp tỷ lệ đáng kể vào cơ cấu ngành kinh tế của huyện. Xí nghiệp cơ khí huyện đã cố gắng đảm bảo sản xuất những nông cụ chủ yếu phục vụ nông nghiệp, bước đầu thực hiện trả lương theo sản phẩm. Giá trị sản lượng cây công nghiệp và thủ công nghiệp đến năm 1975 đạt 1,2 triệu đồng.
2.3. Hoạt động của các ngành tài chính, ngân hàng, lưu thông phân phối
Giai đoạn 1965 - 1975, hệ thống ngân hàng, tài chính, thương nghiệp đã được thiết lập và hoạt động đều đặn từ huyện xuống xã; ngành ngân hàng tích cực tăng cường đầu tư vốn sản xuất cho các hợp tác xã để xây dựng các công trình thuỷ lợi, đường giao thông, sân kho, chuồng trại, mua sắm nông cụ, chăn nuôi...
Ngành tài chính huyện đã làm tốt công tác quản lý thu chi tài chính ở địa phương. Ngành xây dựng cơ bản có bước phát triển mạnh. Trong 10 năm đã hoàn thành xây dựng 01 trạm thuỷ điện, 14 công trình thuỷ lợi và mở 35 km đường giao thông, ước tính tổng giá trị trên 5 tỷ đồng.
2.4. Phát triển văn hóa - xã hội
Mạng lưới văn hoá thông tin được củng cố và mở rộng từ huyện đến cơ sở. Công tác phát hành sách báo trong 10 năm đã được Đảng bộ chỉ đạo sâu sát. Ngành bưu chính đã thực hiện việc vận chuyển công văn, báo chí thông suốt xuống cơ sở. Các chi, đảng bộ cơ sở đều có báo đọc kịp thời.
Về giáo dục, trong những năm có chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, huyện đã có gắng khắc phục mọi khó khăn, tạo điều kiện cho ngành giáo dục lập thêm trường sở, bổ sung giáo viên và vận động các gia đình cho con em đi học. Huyện mở các trường bổ túc văn hoá cho cán bộ và nhân dân, thành lập trường Sư phạm để đáp ứng nguồn giáo viên tại chỗ và trường thanh niên dân tộc.
Năm 1966, trường phổ thông cấp III của huyện được thành lập. Năm 1968, trường phổ thông cấp III Cam Đường được thành lập. Đến năm 1975, hầu hết các xã của huyện đều có trường phổ thông cấp II. Năm học 1974 - 1975, huyện Bảo Thắng có 37 trường phổ thông cấp I và cấp II với 11.800 học sinh. Nhằm tạo nguồn cán bộ cho huyện, năm học 1965-1966, Bảo Thắng thành lập Trường Thanh niên Dân tộc, đặt tại thôn Đồng Lục, xã Gia Phú. Trường có 47 học sinh là con em các dân tộc trong huyện.
Từ năm 1965, hệ thống nhà trẻ phát triển mạnh. Đến năm 1975, toàn huyện đã xây dựng được 62 nhà trẻ và 01 trường mẫu giáo. Hệ bổ túc văn hoá được tổ chức ở 13 cơ sở xã và cơ quan, xí nghiệp. Tính đến cuối năm 1975, đã có trên 95% dân số trong huyện biết chữ. Huyện Bảo Thắng được đánh giá là một trong những đơn vị có phong trào học bổ túc văn hoá khá nhất và hoàn thành thanh toán nạn mù chữ sớm nhất của tỉnh Lào Cai và trong các huyện miền núi phía Tây Bắc.
Công tác bảo vệ sức khỏe cho cán bộ, nhân dân trong huyện được tăng cường. Trong 10 năm, huyện tiếp tục củng cố và phát triển mạng lưới y tế bao gồm các bệnh viện, bệnh xá và các trạm y tế, tổ y tế từ huyện đến cơ sở. Công tác phòng bệnh, phòng dịch từng bước được nâng cao. Bảo Thắng là huyện đầu tiên của tỉnh Lào Cai hoàn thành xây dựng cơ sở y tế ở tất cả các xã.
3. Tăng cường củng cố tổ chức Đảng, xây dựng lực lượng an ninh và tích cực chi viện cho cách mạng miền Nam
Trước tình hình giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, để tiếp tục nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ vừa sản xuất vừa chiến đấu, Đảng bộ giáo dục tinh thần bảo vệ Đảng cho cán bộ và quần chúng nhân dân, tích cực vận động nhân dân ủng hộ đồng bào miền Nam ruột thịt.
Sau khi Hồ Chủ Tịch qua đời, ngày 29/9/1969, Bộ Chính trị ra chỉ thị mở đợt sinh hoạt chính trị lấy tên: "Học tập và làm theo Di chúc của Hồ Chủ Tịch”. Thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, Đảng bộ Bảo Thắng đã chỉ đạo, quán triệt nội dung sinh hoạt tới toàn thể cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Sau đợt học tập, khí thế lao động sản xuất, tinh thần quyết tâm hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đã thể hiện rõ nét trên mọi lĩnh vực công tác và sản xuất.
Từ ngày 7 - 13/3/1970, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Bảo Thắng lần thứ X được tổ chức. Đại hội đã chỉ rõ công tác giáo dục chính tri tư tưởng trong thời gian tới là: Ra sức học tập và làm theo Di chúc của Bác Hồ kính yêu, ra sức lao động và công tác để đền đáp công ơn của Bác.
Tính đến cuối năm 1975, toàn Đảng bộ có 932 đảng viên, sinh hoạt tại 35 chi bộ cơ sở. Từ năm 1966 đến năm 1975, Đảng bộ huyện tổ chức 9 kỳ đại hội.
Trong 10 năm, Đảng bộ Bảo Thắng đã chú trọng đặc biệt tới công tác xây dựng lực lượng bộ đội địa phương, dân quân tự vệ và công an nhân dân. Phong trào đăng ký "ba sẵn sàng" được phát động mạnh mẽ trong thanh niên và lực lượng dân quân. Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, tỉnh Lào Cai đã xây dựng được 3 tiểu đoàn mang tên Hoàng Liên Sơn, trong đó thanh niên huyện Bảo Thắng tham gia đông nhất so với các huyện. Từ năm 1965 đến 1975, nhân dân các dân tộc trong huyện lần lượt tiễn đưa 1.841 thanh niên lên đường nhập ngũ làm nghĩa vụ quân sự, gần 1.000 thanh niên xung phong vào tiền tuyến. 25.000 lượt người đi dân công hoả tuyến. Hàng trăm chiến sĩ đã anh dũng chiến đấu và hy sinh tại chiến trường. Với những thành tích to lớn trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, huyện Bảo Thắng được Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng tặng trên 2.500 huân, huy chương kháng chiến các loại cho tập thể, cá nhân.
VI. Đảng bộ Huyện Bảo Thắng lãnh đạo địa phương xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ Quốc (1975 - 1986)
1. Lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, đấu tranh bảo vệ biên giới (1975 1980)
1.1. Bối cảnh đất nước, địa phương sau thống nhất đất nước
Chiến thắng mùa xuân 1975, trước yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng mới, từ ngày 14 - 20/12/1976, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội. Đại hội thông qua nghị quyết đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và quyết định phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch 5 năm (1976-1980).
Thể chế hóa đường lối Đại hội IV, ngày 27/12/1975, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khoá V, kỳ họp thứ hai quyết định bỏ cấp Khu trong hệ thống các đơn vị hành chính của nước ta, hợp nhất một số tỉnh, trong đó có tỉnh: Lào Cai, Yên Bái và Nghĩa Lộ hợp thành tỉnh Hoàng Liên Sơn. Huyện Bảo Thắng thuộc tỉnh Lào Cai trước đây, lúc này là một huyện của tỉnh Hoàng Liên Sơn. Ngày 16/02/1976, tỉnh Hoàng Liên Sơn chính thức đi vào hoạt động.
1.2. Đại hội Đảng bộ huyện Bảo Thắng lần thứ XVI, XVII, XVIII
Để cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, từ ngày 8/10 đến ngày 13/10/1976, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Bảo Thắng lần thứ XVI (vòng 1) được tổ chức. Đại hội đã tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng và dự thảo báo cáo chính trị của Đảng bộ tỉnh Hoàng Liên Sơn trình Đại hội lần thứ I. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ lần thứ XVI nhiệm kỳ (1976 - 1978) gồm 21 đồng chí. Tại cuộc họp Ban Chấp hành phiên thứ nhất, đồng chí Trần Văn Sẩu được bầu làm Bí thư Huyện uỷ; các đồng chí: Trần Quốc Tốn, Bàn A Hàn được bầu làm Phó Bí thư Huyện uỷ.
Ngày 01/7/1977, Đảng bộ huyện Bảo Thắng tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ XVI (vòng 2). Đại hội đánh giá kết quả phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (1976 - 1980); đề ra phương hướng nhiệm vụ chung của Đảng bộ huyện trong 2 năm (1977-1978).
Sau gần 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI, thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ, từ ngày 26/6 - 30/6/1978, Đảng bộ huyện Bảo Thắng tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ XVII. Đại hội đã đánh giá tình hình và kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI trên các lĩnh vực, đồng thời đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp đến năm 1979. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XVII gồm 19 đồng chí, đồng chí Trần Văn Sẩu tiếp tục được bầu làm Bí thư Huyện uỷ; các đồng chí: Trần Quốc Tốn, Hà Văn Nẻn được bầu làm Phó Bí thư Huyện ủy.
Sau chiến tranh bảo vệ Biên giới phía Bắc tháng 02/1979, đồng chí Trần Văn Sẩu và đồng chí Trần Quốc Tốn được điều động lên tỉnh nhận công tác. Để bổ sung sức mạnh lãnh đạo cho Đảng bộ Bảo Thắng, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Hoàng Liên Sơn đã chỉ đạo Huyện uỷ bầu bổ sung 05 đồng chí vào Ban Thường vụ Huyện uỷ khoá XVII.
Thực hiện hướng dẫn của Trung ương và chủ trương của Tỉnh uỷ, từ ngày 6 - 8/9/1979, Đảng bộ huyện Bảo Thắng tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ XVIII. Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ chung của huyện trong 2 năm 1979 -1980. Đồng thời, Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 1979-1980 gồm 31 ủy viên chính thức và 02 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Đức Xuyên được bầu làm Bí thư Huyện uỷ; các đồng chí: Phạm Văn Tứ, Hà Văn Nẻn được bầu làm Phó Bí thư Huyện uỷ.
1.3. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI, XVII, XVIII (1976 - 1980)
Về sản xuất nông - lâm nghiệp Mặc dù gặp nhiều khó khăn do thiên tai khắc nghiệt, nhiều đợt rét kéo dài, lũ lụt liên tiếp xảy ra làm thiệt hại nặng đến sản xuất, đời sống, song nhiều hợp tác xã trong huyện đã đề cao ý thức tự lực tự cường, tích cực, chủ động khắc phục khó khăn, ra sức xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, thực hiện các biện pháp thâm canh tăng vụ, khai hoang mở rộng diện tích cây màu,...Sau chiến tranh biên giới, Đảng bộ lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống để phát triển sản xuất, vì vậy, tổng sản lượng lương thực quy thóc cả năm đạt 20.300 tấn bằng 110% kế hoạch. Đến năm 1980, toàn huyện có 40 hợp tác xã, nâng tổng số nông dân vào hợp tác xã chiếm 98,7%. Trong 3 năm (1977 1979), Bảo Thắng tiếp tục tiếp nhận 807 hộ với 4.527 khẩu từ các tỉnh miền xuôi lên xây dựng vùng kinh tế mới tại huyện. Công tác bảo vệ và khai thác rừng được huyện luôn quan tâm. Trong 5 năm đã khai thác được 21.432 m3 gỗ các loại, hơn 1 vạn mét song trường và hơn 1 vạn cây tre nứa,...
Về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp - giao thông - xây dựng cơ bản. Từ năm 1976, các xí nghiệp tiến hành cải tiến quản lý sản xuất kinh doanh, các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp được củng cố nhằm thu hút lực lượng lao động sẵn có tại địa phương. Năm 1979, chiến tranh xảy ra, ngành giao thông bị thiệt hại nặng, Bảo Thắng đã đóng góp hàng vạn ngày công để tham gia khôi phục cầu, cống, đường Phố Lu - Cam Đường; mở đường Sơn Hà - Phú Nhuận dài hơn 12km. Năm 1980 các tuyến đường trục từ huyện xuống các xã đều đi bằng xe cơ giới với trọng tải từ 10 tấn, các đường liên thôn trong xã được phát triển mạnh. Nhiều công trình được sửa chữa, xây dựng do bị chiến tranh tàn phá.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội.
Năm học 1976 1977, phong trào bổ túc văn hoá ở xã Cam Đường được coi là điển hình nhân rộng ra nhiều xã trong huyện, thanh toán nạn mù chữ cho 528 người. Khi chiến tranh bảo vệ Biên giới phía Bắc xảy ra, ngành giáo dục bị thiệt hại nặng nề, Đảng bộ Bảo Thắng đã chỉ đạo ngành giáo dục, nhân dân quyết tâm vượt qua khó khăn để đưa con em đến trường. Trong 3 năm (1978 - 1980) toàn huyện đã xây dựng được 95 nhà nhóm trẻ gồm 1.455 cháu với 185 cô nuôi dạy trẻ, có 20 trường phổ thông cơ sở với 15.360 học sinh, số học sinh dân tộc tăng 30%, đã cơ bản xoá được các thôn bản ở rẻo cao xa xôi không có lớp học phổ thông. Toàn huyện có 1 trường phổ thông cấp III với 850 học sinh; có 900 giáo viên các cấp. Phong trào bổ túc văn hoá được giữ vững. Với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", cùng sự chi viện của tỉnh, huyện đã làm thêm 25 phòng học, 01 phòng thí nghiệm và 10 gian nhà cho giáo viên ở bằng gạch, ngói.
Hoạt động văn hoá - văn nghệ đã đi vào tận vùng sâu, vùng xa, các bản làng, giải thích chủ trương, đường lối của Đảng.
Sự nghiệp y tế không ngừng phát triển, có sự tiến bộ rõ rệt trong khám chữa bệnh. Sau chiến tranh bảo vệ Biên giới phía Bắc, ngành y tế đã nhanh chóng giải quyết hậu quả chiến tranh, làm vệ sinh môi trường, đề phòng các dịch bệnh xảy ra.
Về quốc phòng, an ninh.
Công tác an ninh, quốc phòng, đảm bảo trật tự an toàn xã hội luôn được chú trọng thực hiện. Công tác phòng không an toàn được hoàn thành tốt, đã tiến hành tu sửa, làm mới trên 4.200 hầm hào, trên 44.800m giao thông hào và 27 trận địa chốt chiến, huy động hàng vạn ngày công xây dựng phòng tuyến và trồng, rào tre biên giới.
Ngày 17/02/1979, cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc nổ ra. Cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã huy động được sức mạnh toàn dân trong huyện đánh thắng kẻ thù. Bảo Thắng vinh dự được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho 3 cán bộ, chiến sĩ; 5 đơn vị, tập thể và 24 cá nhân được Nhà nước tặng thưởng huân chương các loại; 10 tập thể, cá nhân được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen; 43 tập thể, cá nhân được UBND tỉnh tặng Bằng khen; Chủ tịch UBND huyện cấp giấy khen và thưởng hiện vật cho 5 tập thể, 97 cá nhân.
Về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.
Năm 1980, Đảng bộ Bảo Thắng có 50 chi, đảng bộ cơ sở với 1.529 đảng viên. Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở, Huyện uỷ đã kiện toàn 5 chức danh: Bí thư, chủ tịch, trưởng công an xã, chủ nhiệm hợp tác xã, xã đội trưởng. Huyện đã cử 100 đồng chí đi học chương trình sơ cấp ở trường đảng huyện và tỉnh, 28 đồng chí đi học trung cấp lý luận ở phân hiệu Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 12/1976, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đã quyết định đổi tên “Đoàn thanh niên Lao động Hồ Chí Minh” thành “Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh”. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh huyện Bảo Thắng phát động phong trào "Lao động tình nguyện xây dựng Tổ quốc XHCN giàu mạnh" với khẩu hiệu hành động "thanh niên hăng hái tiến lên hàng đầu". Khi cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc nổ ra, tuổi trẻ Bảo Thắng đã nêu cao 5 lời thề chiến đấu, sẵn sàng đi theo Đảng làm cách mạng.
Công tác vận động đoàn thể quần chúng đã được cấp uỷ Đảng quan tâm đúng mức. Từ năm 1976 đến năm 1980, các đoàn thể quần chúng thi đua lao động sản xuất, lập thành tích chào mừng đại hội Đảng các cấp, đại hội các đoàn thể. Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc có nhiều đóng góp trong xây dựng và bảo vệ đất nước.
2. Lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội (1981 - 1985)
2.1. Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIX
Từ ngày 25 - 29/12/1981, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Bảo Thắng lần thứ XIX (vòng 1) được tiến hành. Dự Đại hội có 144 đại biểu chính thức, 02 đại biểu dự khuyết. Đại hội tham gia ý kiến vào dự thảo báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ V và Đại hội Đảng bộ tỉnh Hoàng Liên Sơn lần thứ III. Đại hội đã bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Hoàng Liên Sơn lần thứ III gồm 17 đồng chí (trong đó có 01 dự khuyết). Từ ngày 19 - 22/9/1982, Đảng bộ huyện Bảo Thắng tiếp tục tiến hành Đại hội lần thứ XIX (vòng 2). Dự Đại hội có 161 đại biểu ưu tú đại diện cho 1.664 đảng viên trong 55 chi, đảng bộ cơ sở.
Đại hội kiểm điểm, đánh giá những thành tựu đã đạt được trong nhiệm kỳ khoá XVIII, chỉ ra những tồn tại trong việc thực hiện nhiệm vụ trên từng lĩnh vực và đề ra phương hướng, nhiệm vụ chung trong giai đoạn 1981-1985. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần thứ XIX gồm 35 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Đức Xuyên tiếp tục được bầu làm Bí thư Huyện ủy; các đồng chí: Phạm Văn Tứ, Lương Xuân Mầu, Hà Văn Nẻn được bầu làm Phó Bí thư Huyện ủy.
2.2. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XIX (1981 - 1985)
Về kinh tế Nhờ tích cực khai hoang nên diện tích lúa vẫn được giữ vững. Chăn nuôi cũng được Đảng bộ chỉ đạo chặt chẽ, chú ý phát triển chăn nuôi tập thể và hộ gia đình. Trong 3 năm (1981-1983), việc đổi mới cơ chế quản lý hợp tác xã nông nghiệp bước đầu đã làm thay đổi tình hình sản xuất theo chiều hướng đi lên, đời sống xã viên ngày càng ổn định, sản lượng lương thực tăng. Phát triển mạnh các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, mở rộng ngành nghề tiểu thủ công nghiệp trong các hợp tác xã nhà nước.
Văn hóa xã hội Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, xã hội những năm 1981- 1985 có nhiều chuyển biến tốt, đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân được nâng lên từng bước. Giáo dục được đẩy mạnh, hầu hết con em nhân dân trong huyện từ vùng thấp tới vùng cao đến tuổi đều được đi học. Năm 1981, huyện Bảo Thắng có 1.230 cháu ở lứa tuổi mẫu giáo được học tập, giáo dục theo chương trình mới, toàn huyện có 7.670 học sinh cấp I, cấp II và 206 học sinh cấp III. Nhân dân đóng góp với nhà nước hàng chục nghìn đồng để xây dựng trường lớp. Năm 1985 số học sinh đỗ hệ trung cấp, cao đẳng và đại học tăng lên. Nhiều trường học được tu bổ và xây dựng mới với trị giá trên 2 triệu đồng, phần lớn do nhân dân đóng góp.
Hoạt động văn hoá - xã hội, thể dục thể thao tiếp tục được duy trì góp phần đắc lực trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của huyện. Những tập tục lạc hậu đã bước đầu được hạn chế.
Ngành y tế từ huyện đến cơ sở không ngừng phát triển. Ở các xã, thị trấn, nông - lâm trường đều có trạm xá, ở các cơ quan đều có cán bộ y tế đảm nhiệm việc cấp phát thuốc và chữa bệnh tại chỗ cho cán bộ. Công tác phòng chônhs dịch bệnh được chú trọng.
Quốc phòng an ninh An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Toàn huyện củng cố được 568 tổ an ninh nhân dân, 70 tổ an toàn cơ quan.
Công tác quân sự địa phương được tăng cường. Việc khám tuyển quân hàng năm luôn đảm bảo chỉ tiêu 100% kế hoạch. Trong 5 năm, toàn huyện đã tu sửa được 1.284 hầm chữ A, 593 hầm chữ T, 3.855 hầm ếch, 10 hầm bê tông, 12 công trình chiến đấu và trên 1 vạn hố cá nhân, 21.000m hào giao thông để phòng khi chiến sự có thể xảy ra. Quân và dân trong huyện đóng góp nhiều ngày công, vật liệu để xây dựng nghĩa trang mới của huyện; quy tập được trên 600 mộ liệt sĩ vào các nghĩa trang an toàn và chu đáo. Đây là việc làm quan trọng và có ý nghĩa rất lớn đối với địa phương.
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Trong 2 năm (19811982), Đảng bộ đã mở nhiều cuộc sinh hoạt chính trị lớn để nâng cao đạo đức, phẩm chất cho cán bộ, đảng viên. Toàn Đảng bộ huyện lúc này có 62 tổ chức cơ sở Đảng với 1.699 đảng viên.
Thực hiện chủ trương của Huyện uỷ, các cấp uỷ đảng, các tổ chức đoàn thể: Dân vận, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Phụ nữ, Thanh niên đã xây dựng cải tiến phương thức hoạt động. Tiêu biểu là Đoàn TNCS Hồ Chí Minh luôn là lực lượng xung kích trên mặt trận sản xuất, trong xây dựng Tổ quốc. Ban Dân vận tập trung triển khai Nghị quyết 10 của Ban Bí thư về chính sách đối với người Hoa. Hội Phụ nữ các cấp đẩy mạnh phong trào “3 vượt mức, 5 công khai” trong hợp tác xã, phong trào chăn nuôi gia đình, gửi tiền tiết kiệm, nuôi con khoẻ, dạy con ngoan, thực hiện sinh đẻ có kế hoạch và thực hiện chính sách hậu phương, quân đội. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc đã phối hợp với các tổ chức thành viên, cùng với các ngành liên quan tổ chức học tập chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính sách của Chính phủ tới nhân dân, tổ chức các hoạt động nhằm tăng cường đoàn kết dân tộc, vận động nhân dân sẵn sàng chiến đấu, sản xuất, tự ổn định đời sống.
VII. Đảng bộ huyện Bảo Thắng lãnh đạo địa phương thực hiện đường lối của Đảng (1986 - 2000)
1. Đảng bộ huyện Bảo Thắng bước đầu lãnh đạo công cuộc đổi mới (1986 - 1990)
1.1. Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XX, XXI
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội có ý nghĩa vô cùng to lớn, tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng kéo dài hơn chục năm và đặt nền móng cho việc tìm ra con đường thích hợp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng CNXH, tạo ra bước đột phá, đem lại nguồn sinh khí mới, làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên.
Từ ngày 16 - 19/9/1986, Đảng bộ Bảo Thắng đã tiến hành Đại hội lần thứ XX. Tham dự Đại hội có 144 đại biểu chính thức. Đại hội đã thảo luận, đánh giá tình hình của huyện từ năm 1981-1985, đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ mới. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XX gồm 39 uỷ viên chính thức, 8 uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Tráng A Pao được bầu làm Bí thư Huyện uỷ; các đồng chí: Lương Xuân Mầu, Hà Văn Nẻn được bầu làm Phó Bí thư Huyện ủy.
Sau hai năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XX, từ ngày 16 - 18/11/1988, Đảng bộ huyện Bảo Thắng tiếp tục tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ XXI. Dự đại hội có 161 đại biểu chính thức. Đại hội đã kiểm điểm, thảo luận về việc thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XX, đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ đến năm 1990. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành khóa XXI gồm 33 uỷ viên chính thức, 6 uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Tráng A Pao tiếp tục được bầu làm Bí thư Huyện uỷ; các đồng chí: Mai Văn Điện, Lương Xuân Mầu được bầu làm Phó Bí thư Huyện ủy.
Năm 1990, đồng chí Tráng A Pao được tỉnh điều động đi nhận công tác khác. Đồng chí Lương Xuân Mầu được bầu làm Bí thư Huyện uỷ.
1.2. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XX, XXI (1986 - 1990)
Tiến hành đổi mới về kinh tế: Trong phát triển nông, lâm nghiệp: Đảng bộ Bảo Thắng xác định vẫn lấy nông nghiệp làm nhiệm vụ hàng đầu. Thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý trong nông nghiệp (gọi tắt là “khoán 10”) và Nghị quyết 02 ngày 09/12/1987 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hoàng Liên Sơn nhằm thực hiện thắng lợi 3 chương trình kinh tế lớn, huyện đã tập trung chỉ đạo, củng cố lại một số hợp tác xã với quy mô, phương hướng sản xuất và cơ chế quản lý thích hợp. Nhờ đó, sản xuất lương thực tăng cả về năng suất và diện tích gieo trồng.
Huyện đã ban hành một số chính sách khuyến khích và chủ trương chuyển hướng phát triển chăn nuôi về hộ gia đình. Mặt khác, tập trung đầu tư cho chăn nuôi quốc doanh và tập thể, củng cố, xây dựng thêm các trạm trại chăn nuôi thú y.
Sản xuất lâm nghiệp trong 5 năm, Bảo Thắng đã khai thác được 9.250m3 gỗ tròn các loại để phục vụ cho xây dựng cơ bản, công nghiệp chế biến...
Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, Huyện ủy đã xây dựng kế hoạch chuyên đề và chỉ đạo các ngành chức năng thực hiện đổi mới chính sách sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương. Các xí nghiệp mộc xẻ, cơ khí, chú trọng đầu tư đổi mới thiết bị, phương tiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng và phát triển kinh tế của địa phương.
Về xuất khẩu, Đảng bộ chỉ đạo tập trung 3 loại cây trồng chủ lực của huyện: Cây sả, cây quế và cây chè. Hình thành vùng chè liên kết ở 3 xã: Phong Niên, Xuân Quang, Trì Quang. Năm 1990, Bảo Thắng đã xây dựng được vùng nguyên liệu xuất khẩu theo hướng lâu dài, ổn định.
Giao thông vận tải đã có nhiều cố gắng đáp ứng nhu cầu vận chuyển vật tư hàng hóa và đi lại của nhân dân. Năm 1986, cầu Phố Lu, Gia Phú được xây dựng, đảm bảo tuyến giao thông đường sắt thông suốt từ Lào Cai đi Hà Nội; hoàn thành xây dựng, rải nhựa tuyến đường 19/5 tại trung tâm huyện. Xây dựng sửa chữa nhiều cầu cống; tu sửa, làm mới 120km đường liên thôn, xã…
Về xây dựng cơ bản, với phương châm "Nhà nước và nhân dân, tỉnh với địa phương cùng làm", giai đoạn 1986-1990, nhiều công trình trọng điểm được đầu tư xây dựng như: trường học, bệnh viện huyện, trạm biến thế, điện đường Sơn Hà, sân khấu ngoài trời của huyện, Trạm biến thế 35kW, trạm phát sóng truyền hình màu thị trấn Phố Lu, Trường Phổ thông Trung học Bảo Thắng, chợ Phố Lu, …
Công tác tài chính ngân hàng, tín dụng từng bước đổi mới đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mở rộng phân cấp cho cơ sở quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, quyền chủ động tài chính, gắn trách nhiệm với quyền lợi của người lao động.
Phát triển sự nghiệp văn hóa - xã hội: Thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 05/9/1987 của Tỉnh uỷ Hoàng Liên Sơn về củng cố và phát triển sự nghiệp giáo dục vùng cao, ngành giáo dục huyện đã có những bước tiến bộ, nhất là việc thực hiện cải cách giáo dục, củng cố chất lượng giáo dục cấp I. Hệ thống giáo dục được sắp xếp lại. Năm học 1986-1987, toàn huyện đã tổ chức được 18 lớp bổ túc văn hóa học tập trung và 26 lớp tại chức. Năm học 1989-1990 đã huy động được 18.445 học sinh các cấp ra lớp với số giáo viên là 1.046 người. Năm học 1990-1991 toàn huyện tổ chức được 26 lớp mẫu giáo với 890 cháu; Phổ thông cấp I và cấp II có 508 lớp với 15.759 học sinh; Phổ thông Trung học có 11 lớp với 402 học sinh; có 622 người ở một số xã, thị trấn theo học lớp xóa nạn mù chữ và chống mù chữ trở lại.
Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân được duy trì, phong trào vệ sinh phòng bệnh được đẩy mạnh. Từ năm 1986, bệnh viện huyện được tiến hành xây dựng, trang bị thêm các phương tiện y tế phục vụ khám, chữa bệnh cho nhân dân.
Trong công tác văn hóa thông tin, các trạm phát thanh, truyền thanh cơ sở được quan tâm xây dựng. Hoạt động chiếu bóng nghệ thuật được tăng cường, các xã đều thành lập được đội văn nghệ. Một số môn thể thao truyền thống tiếp tục được duy trì và phát triển.
Tăng cường Quốc phòng - An ninh.
Trong 5 năm đã thành lập được 525 tổ an ninh nhân dân ở 16 xã, thị trấn. Dập tắt cuộc tuyên truyền xưng vua, đón vua Mèo trong đồng bào dân tộc Mông, bắt giữ nhiều vụ thâm nhập trái phép qua biên giới xuống địa bàn Bảo Thắng.
Lực lượng công an không ngừng được củng cố, phát động phong trào quần chúng, xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, tiến hành nhiều đợt tấn công truy quét tội phạm. Lực lượng dân quân tự vệ được kiện toàn. Huyện Bảo Thắng được Hội đồng Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công hạng 3 và 3 Huân chương Chiến công cho 3 xã: Bản Phiệt, Thái Niên, Xuân Quang.
Củng cố, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
Nhiệm vụ trọng tâm trong công tác xây dựng Đảng giai đoạn này là: Tập trung làm chuyển biến nhận thức cho cán bộ, đảng viên về đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, trọng tâm là đổi mới tư duy, nâng cao năng lực, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng. Nhờ đó đã tạo sự thống nhất về nhận thức, quan điểm, làm trong sạch tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Lòng tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố. Trong 5 năm (1986-1990) đã xử lý 170 trường hợp đảng viên yếu kém, trong đó 24 đảng viên bị khai trừ ra khỏi Đảng.
Công tác phát triển Đảng được Đảng bộ quan tâm tiến hành thường xuyên, việc bồi dưỡng và kết nạp đảng viên mới được tiến hành chặt chẽ. Từ năm 1986 1990, Đảng bộ kết nạp được 208 đảng viên mới. Năm 1990 mở được 4 lớp đối tượng đảng cho 91 đồng chí.
Cùng với tăng cường củng cố tổ chức Đảng, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp được kiện toàn, chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và đại biểu Hội đồng nhân dân được nâng cao. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng cũng được đổi mới. Các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước được đông đảo hội viên, đoàn viên tham gia, hiệu quả thiết thực.
2. Đảng bộ Bảo Thắng tiếp tục lãnh đạo công cuộc đổi mới (1991 - 1995)
2.1. Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII
Đại hội Đảng bộ huyện Bảo Thắng lần thứ XXII (vòng 1) được tổ chức trong 2 ngày (19-20/3/1991). Tham dự Đại hội có 138 đại biểu chính thức. Từ ngày 25- 26/11/1991, Đảng bộ huyện Bảo Thắng đã tiến hành Đại hội lần thứ XXII (vòng 2). Dự Đại hội có 131 đại biểu chính thức. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khoá XXII, nhiệm kỳ 1991-1995 gồm 29 đồng chí. Đồng chí Lương Xuân Mầu được bầu làm Bí thư Huyện uỷ, các đồng chí: Phạm Kỳ, Nguyễn Kim Đê được bầu làm Phó Bí thư Huyện uỷ.
2.2. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII
Năm 1991, tỉnh Lào Cai được tái lập, huyện Bảo Thắng tiếp tục sự nghiệp đổi mới trong điều kiện có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn: huyện còn phải đảm đương thêm nhiệm vụ của tỉnh khi chưa có đô thị tỉnh lỵ, đóng góp rất lớn cho tỉnh trong lúc khó khăn ban đầu, là địa bàn cung cấp cơ sở vật chất, vừa phải bố trí, sắp xếp lại các cơ quan, phòng ban để cho các cơ quan tỉnh về tập kết. Đến đầu năm 1993, các cơ quan, ban ngành của tỉnh chuyển lên thị xã Lào Cai, một số đông cán bộ lãnh đạo chủ chốt của huyện chuyển công tác theo sự điều động của tỉnh, đồng thời một bộ phận nhân dân chuyển lên Lào Cai làm ăn, sinh sống, vì vậy huyện thiếu cán bộ, nguồn thu của huyện bị giảm sút,... Song, với chủ trương đúng đắn, kịp thời, tạo được sự đoàn kết nhất trí cao trong nhân dân, được nhân dân nhiệt tình ủng hộ, đã tạo ra sức mạnh để nhân dân các dân tộc trong huyện ra sức thi đua đạt được nhiều kết quả trên các lĩnh vực.
Kết quả đạt được về kinh tế:
Huyện đã tập trung chỉ đạo sản xuất nông nghiệp, tăng diện tích gieo trồng một số cây chính. Các loại giống cây trồng, vật nuôi mới có giá trị kinh tế cao được phổ biến và áp dụng khá sâu rộng. Từng bước thực hiện chuyển dần sản xuất lương thực sang sản xuất cây công nghiệp, thực phẩm, cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như: Chè, quế, mía, đậu tương, …Khuyến khích chăn nuôi ở hộ gia đình đạt hiệu quả kinh tế cao, đã tạo ra sản phẩm hàng hoá có giá trị tiêu thụ trong nội địa.
Việc giao đất giao rừng, quản lý, bảo vệ khoanh nuôi tái sinh rừng, phủ xanh đồi núi trọc làm tăng vốn rừng bước đầu có hiệu quả. Chủ trương phát triển vườn đồi, vườn rừng đã khuyến khích nhân dân trồng hàng trăm ha cây ăn quả, cây lấy gỗ. Nhiều gia đình biết làm kinh tế vườn rừng đã trở nên giàu có nhanh chóng.
Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: Đã từng bước chuyển đổi cơ cấu sản xuất các ngành nghề, nông lâm sản, công nghiệp vật liệu xây dựng. Từ năm 1992 - 1995, Đảng bộ có chủ trương chuyển hướng sản xuất công nghiệp phát triển sang các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là chính.
Trong giai đoạn này, huyện đã xây dựng công trình đường điện sáng Phố Lu - Sơn Hà, đài truyền hình huyện, trường học, bệnh viện, xây dựng 2 trạm truyền thanh ở 2 thôn vùng cao, dân tộc là Ải Nam (Phong Hải) và Làng Có (xã Phong Niên); quy hoạch lại thị trấn huyện lỵ, khởi công xây dựng thị tứ ngã ba Bắc Ngầm, ngã ba Bản Phiệt,.. Mạng lưới điện quốc gia đã được củng cố và mở rộng hoà vào mạng lưới địa phương đưa điện thắp sáng đến 8/15 xã, thị trấn.
Giao thông vận tải trong huyện thuận lợi cả về đường bộ, đường sắt và đường thuỷ. Hệ thống thông tin liên lạc được thông suốt đến tận các xã và cụm dân cư. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện.
Phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa - xã hội.
Ngành giáo dục đào tạo có nhiều cố gắng sắp xếp lại mạng lưới trường lớp. Đặc biệt đã xây dựng được mô hình giáo dục mới, chương trình lồng ghép, chương trình phát triển mẫu giáo - nhà trẻ do UNIXEP tài trợ. Đồng thời mở lớp đào tạo giáo viên sư phạm 9+1 tại huyện để bổ sung nguồn giáo viên cho nhu cầu phát triển chung của huyện. Lớp chọn, lớp chuyên được hình thành, chất lượng giáo dục được nâng lên. Năm học 1994 - 1995 huyện Bảo Thắng được tỉnh công nhận là huyện có phong trào giáo dục khá nhất trong toàn tỉnh.
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm, việc tiêm chủng mở rộng đạt hiệu quả cao, đẩy lùi một bước bệnh sốt rét và các bệnh xã hội khác. Đến cuối năm 1995 đã xoá được xã trắng không có cơ sở y tế. Bảo Thắng được tỉnh đánh giá là một trong những huyện có phong trào y tế khá nhất trong toàn tỉnh.
Hoạt động văn hoá - xã hội từng bước đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân. Các loại hình thông tin ngày một đa dạng, phong phú, chú trọng phục vụ đồng bào vùng cao, vùng xa, đáp ứng nhu cầu thông tin của Nhân dân.
Xây dựng quốc phòng - an ninh.
Đảng bộ quan tâm giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ và thực hiện tốt nghĩa vụ công dân trong việc củng cố quốc phòng - an ninh, đấu tranh, cảnh giác với âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch. Thường xuyên theo dõi, nắm chắc được tình hình biên giới, giữ vững chủ quyền và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trên địa bàn huyện. Mạng lưới an ninh nhân dân ở hầu hết các thôn bản, cụm dân cư hoạt động có hiệu quả tốt.
Củng cố, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Đảng bộ đã đổi mới công tác xây dựng Đảng và hoạt động của hệ thống chính trị, gắn công tác xây dựng Đảng với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Thường xuyên làm tốt công tác chính trị tư tưởng, tuyên truyền giáo dục cho cán bộ, đảng viên thấu suốt quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng.
Công tác củng cố tổ chức cơ sở Đảng là việc làm thường xuyên của Đảng bộ, được cấp uỷ huyện đặc biệt quan tâm. Năng lực lãnh đạo của cấp uỷ, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên được nâng. Trong 5 năm, toàn Đảng bộ đã kết nạp được 201 đảng viên.
Trong nhiệm kỳ khóa XXII, mặc dù có sự thay đổi lớn về cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong huyện nhưng đội ngũ cán bộ từ huyện đến cơ sở vẫn không ngừng phấn đấu vươn lên, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của địa phương. Bộ máy nhà nước ở huyện và cơ sở đã từng bước đi vào nề nếp hoạt động, phát huy chức năng giám sát, hiệu quả điều hành kinh tế - xã hội ở địa phương, đơn vị.
3. Đảng bộ huyện Bảo Thắng lãnh đạo địa phương thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996 - 2000)
3.1. Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIII
Từ ngày 17 - 20/01/1996 tại Hội trường UBND huyện đã diễn ra Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Bảo Thắng lần thứ XXIII. Dự Đại hội có 105 đại biểu. Đại hội đã kiểm điểm sâu sắc việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XXII, nhiệm kỳ 1991 - 1995, đề ra mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của Đảng bộ nhiệm kỳ 1996 - 2000. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XXIII, nhiệm kỳ 1996 - 2000 gồm 33 đồng chí. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã bầu Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí. Đồng chí Vi Văn Đông được bầu làm Bí thư Huyện uỷ; các đồng chí: Mai Quốc Tờ, Doãn Văn Hưởng được bầu làm Phó Bí thư Huyện uỷ.
3.2. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIII (nhiệm kỳ 1996 - 2000)
Lĩnh vực phát triển kinh tế
Huyện tập trung đẩy mạnh tốc độ chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, bố trí lại mùa vụ, giao đất nông nghiệp ổn định, lâu dài cho hộ nông dân. Hình thành các vùng chuyên canh lúa, ngô, cây ăn quả, cây công nghiệp. Phong trào sản xuất theo mô hình kinh tế trang trại được khuyến khích phát triển.
Về chăn nuôi, các cơ sở trong huyện tập trung phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, vừa đảm bảo sức kéo cho nông dân, vừa phát triển tăng tổng đàn để trở thành hàng hoá mang lại thu nhập cho nông dân.
Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chủ yếu phát triển theo hướng chế biến nông, lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng, dịch vụ, gia công, sửa chữa, cơ khí, vận tải hàng hoá và hành khách. Đến năm 2000 tổng giá trị sản lượng công nghiệp đạt 16 tỷ 770 triệu đồng, tăng 72,5% so với năm 1995.
Đầu tư xây dựng cơ bản và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Huyện tập trung đầu tư hoàn thành các công trình: chợ thị trấn Phố Lu, trụ sở Ban Chỉ huy Quân sự huyện, Đài truyền hình thị trấn Phong Hải, bệnh viện huyện; xây dựng hệ thống thuỷ lợi, điện thắp sáng, trường học, trạm y tế, dự án vùng cao, vùng sâu. 15/15 xã, thị trấn có đường ô tô đến trung tâm, đường liên thôn đi lại thuận tiện hơn. Năm 2000, có 13/15 xã được dùng điện lưới quốc gia.
Lĩnh vực văn hoá - xã hội.
Ngày 12/7/1996, Huyện uỷ Bảo Thắng ban hành Nghị quyết về công tác phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ. Sau khi có Nghị quyết TW 2 (khoá VIII) "Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000", ngày 15/7/1997, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện tiếp tục ban hành chương trình hành động thực hiện Nghị quyết TW 2 (khoá VIII) , trong đó xác định huy động 90 - 95% trẻ 5 tuổi đi học mẫu giáo lớn; 100% xã, thị trấn hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 1998. Đến năm 2000 thanh toán nạn mù chữ và hoàn thành các phương án chống tái mù chữ cho người dân trong độ tuổi.
Công tác xã hội hoá giáo dục được coi trọng. Hội Phụ nữ huyện tổ chức được 2 lớp xoá mù chữ cho 56 học viên tại Trường Tiểu học Xuân Quang 1, Huyện đoàn phối hợp với các trường học mở nhiều lớp xóa mù chữ ở Tằng Loỏng, Phú Nhuận, Phong Hải. Nhân dân trong huyện tích cực, tự giác đóng góp tiền, công lao động, nguyên vật liệu để xây dựng trường, lớp. Huyện tiếp tục mở lớp đào tạo giáo viên 9+1 đáp ứng nhu cầu giáo viên dạy học ở tất cả các trường và các phân hiệu.
Các chương trình y tế quốc gia được triển khai thực hiện đồng bộ, quan tâm củng cố mạng lưới y tế cơ sở, chất lượng chăm sóc sức khoẻ ban đầu, khám chữa bệnh cho nhân dân được nâng lên. Huyện đào tạo được 209 nhân viên y tế thôn bản. Toàn huyện có 15 trạm y tế, 02 phòng khám khu vực, 01 trung tâm y tế huyện.
Đến năm 2000, thông tin liên lạc, phát hành báo chí trong toàn huyện đã đảm bảo thông suốt. 15/15 xã, thị trấn có điện thoại, mật độ 100 dân/máy; 7/15 xã có điểm bưu điện văn hoá xã; 10/15 xã có báo đọc trong ngày. Ở Gia Phú, Sơn Hải, Phú Nhuận tổ chức được các câu lạc bộ gia đình văn hoá. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" được các đơn vị hưởng ứng tích cực.
Quốc phòng an ninh
Đảng bộ đã xây dựng các chương trình hành động, phương án, kế hoạch về bảo vệ an ninh quốc phòng trong tình hình mới. Bổ sung, hoàn chỉnh và luyện tập các phương án phòng thủ, tác chiến của huyện và cơ sở. Mở các lớp tập huấn về kiến thức quốc phòng cho các đồng chí Bí thư chi, đảng bộ cơ sở, chủ tịch UBND các xã, thị trấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho xã đội trưởng, trưởng công an, công an viên. Ban hành Chỉ thị về "Công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự - quốc phòng" và Chỉ thị "Về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự".
Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
Ngày 29/4/1997, Huyện uỷ tổ chức Lễ đón cờ “Đảng bộ trong sạch vững mạnh 2 năm (1995 - 1996)”, là Đảng bộ đầu tiên trong tỉnh được vinh dự đón cờ do Tỉnh uỷ Lào Cai tặng. Ngày 15/10/1998, Huyện uỷ tổ chức trọng thể mít tinh kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Đảng bộ huyện (15/10/1948 15/10/1998).
Công tác tổ chức cán bộ được thực hiện nghiêm theo nguyên tắc tập trung dân chủ, các nguyên tắc trong tổ chức và sinh hoạt Đảng. Đảng bộ chú trọng nâng cao trình độ chính trị cho cán bộ, đảng viên. Trong 5 năm, huyện đã mở 10 lớp lý luận chính trị phổ thông cho 415 đảng viên mới kết nạp. Phối hợp với Trường Chính trị tỉnh mở 2 lớp Trung cấp lý luận chính trị cho 121 học viên. Cử 67 cán bộ đi học tại Trường Chính trị tỉnh và các trường Trung ương. Toàn Đảng bộ kết nạp 485 đảng viên mới, xoá 11 thôn chưa có đảng viên. Đến tháng 7/2000, Đảng bộ huyện có 45 tổ chức cơ sở đảng với 2.033 đảng viên.
Trong 5 năm, đã tiến hành kiểm tra 9 tổ chức cơ sở đảng, 164 đảng viên theo các chuyên đề, xử lý kỷ luật 7 tập thể cấp uỷ và 72 cán bộ, đảng viên. Qua công tác kiểm tra của Đảng góp phần tăng cường sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng trong sạch vững mạnh.
Bộ máy nhà nước từ huyện đến xã thường xuyên được củng cố và tăng cường đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Các đoàn thể chính trị - xã hội tập trung đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, vận động đoàn viên, hội viên tham gia tích cực các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, xây dựng gia đình văn hoá, xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư,... đã lôi cuốn hàng vạn lượt đoàn viên, hội viên tham gia.
VIII. Đảng bộ huyện Bảo Thắng lãnh đạo địa phương tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, phát triển toàn diện bền vững (2000 - 2025)
1. Lãnh đạo đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn (2000 - 2005)
1.1. Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIV
Từ ngày 16 -18/11/2000, tại hội trường UBND huyện đã diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Bảo Thắng lần thứ XXIV (nhiệm kỳ 2000-2005). Dự đại hội có 125 đại biểu/128 đại biểu triệu tập. Đại hội đã thảo luận và thông qua báo cáo tổng hợp ý kiến tham gia vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII Đảng bộ tỉnh Lào Cai và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng; thảo luận dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXIII trình Đại hội; Bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXIV; bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XII. Đồng thời, Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát cho giai đoạn 2001 2005.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XXIV gồm 33 đồng chí. Đồng chí Doãn Văn Hưởng trúng cử giữ chức Bí thư Huyện uỷ; các đồng chí: Phạm Đình Chương, Mai Quốc Tờ trúng cử giữ chức Phó Bí thư Huyện uỷ. Đại hội bầu đoàn đại biểu đi dự đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XII gồm 25 đồng chí.
1.2. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIV (2000 - 2005)
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Tỉnh uỷ, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Bảo Thắng khoá XXIV đã tập trung xây dựng 5 chương trình, 19 đề án, kế hoạch và nghị quyết chuyên đề cụ thể hoá các chỉ thị, nghị quyết, các chương trình, đề án, kế hoạch của tỉnh vào điều kiện thực tế của địa phương, lãnh đạo thắng lợi các mục tiêu nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện khoá XXIV đề ra.
Lĩnh vực kinh tế
Sản xuất nông, lâm nghiệp có bước tăng trưởng toàn diện, nhiều mô hình sản xuất hiệu quả. Từng bước phát triển, chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá. Bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới.
Sản xuất công nghiệp tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản, kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư xây dựng, từng bước đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Công tác quy hoạch và xây dựng cơ bản được chú trọng. Trong 5 năm toàn huyện đã mở mới được 99 tuyến đường thuộc chương trình giao thông nông thôn với tổng chiều dài 232 km; đưa vào sử dụng 128 phòng học; 15/15 xã, thị trấn có đường ô tô đến trung tâm xã; 92,21% thôn có đường liên thôn đi lại thuận lợi.
Văn hóa xã hội
Hoạt động văn hoá - văn nghệ, thông tin, thể thao, phát thanh, truyền hình có nhiều đổi mới. Đảm bảo 100% địa bàn được phủ sóng phát thanh; 95% địa bàn dân cư được phủ sóng truyền hình. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” được nhân dân ủng hộ. Phong trào văn nghệ, thể dục thể thao diễn ra sôi nổi, rộng khắp được nhân dân tích cực hưởng ứng tham gia. Việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội được tuyên truyền, tổ chức triển khai, tạo môi trường văn hoá lành mạnh.
Sự nghiệp giáo dục phát triển nhanh và tương đối toàn diện. Quy mô trường, lớp phát triển hợp lý, xoá bỏ tình trạng mất cân đối giữa các ngành học, năm 2005 toàn huyện có 77 trường với 29.000 học sinh. Chất lượng giáo dục của các ngành học, bậc học phổ thông được tăng lên. Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đến trường đạt 98,5% năm 2005, tăng 12,8% so với năm 2000. Huyện đạt chuẩn Phổ cập Giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi năm 2004; đạt phổ cập giáo dục THCS năm 2005; toàn huyện xây dựng được 7 trường học đạt chuẩn quốc gia. Cơ sở vật chất các trường học được đầu tư; không còn lớp học ba ca, cơ bản xoá bỏ phòng học tạm. Công tác xã hội hoá giáo dục tiếp tục được mở rộng duy trì; phát triển mô hình các lớp bán trú dân nuôi ở Phong Hải, Thái Niên, Tằng Loỏng, lớp 10 THPT tại trường Phổ thông Dân tộc nội trú huyện; Hội Khuyến học từ huyện đến các cơ quan, các xã, thị trấn được thành lập, hoạt động hiệu quả.
Công tác y tế được chú trọng, đảm bảo chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và nâng cấp. Toàn huyện có 3 phòng khám đa khoa khu vực, 15/15 xã, thị trấn có trạm y tế và y sĩ sản, nhi; 8 cơ sở có bác sĩ; 99% thôn có cán bộ y tế hoạt động. Thực hiện tốt công tác khám, chữa bệnh cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi.
Các vấn đề xã hội khác được chăm lo thực hiện, nhất là chế độ cho các đối tượng chính sách trên địa bàn. Phát động được nhiều phong trào đền ơn đáp nghĩa, làm việc từ thiện, cứu trợ nhân đạo…được nhân dân đồng tình, hưởng ứng.
Quốc phòng an ninh
Hàng năm, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đều ban hành các nghị quyết, chỉ thị để lãnh đạo, thực hiện công tác quân sự quốc phòng và bảo vệ an ninh khu vực biên giới. Đồng thời, xây dựng chương trình hành động, lãnh đạo thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của các cấp uỷ Đảng về công tác quốc phòng. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, phong trào toàn dân phòng chống tội phạm phát triển sâu rộng trong nhân dân. Công tác đối ngoại không ngừng mở rộng và phát triển.
Hoạt động của hệ thống chính trị huyện tiếp tục có những chuyển biến tích cực cả về nội dung hoạt động và phương thức lãnh đạo.
Công tác chính trị tư tưởng được chú trọng, hướng mạnh các hoạt động về cơ sở. Đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ. Việc tổ chức, triển khai, học tập, quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, của tỉnh và các chủ trương lãnh đạo của Đảng bộ huyện được triển khai sâu rộng đến quần chúng nhân dân.
Công tác tổ chức cán bộ được đặc biệt chú trọng, quan tâm cán bộ trẻ, cán bộ là người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ. Chú trọng đào tạo cán bộ cơ sở về lý luận chính trị và các chuyên ngành. Trong 5 năm, đã mở được 145 lớp bồi dưỡng về công tác Đảng, đoàn thể, quản lý nhà nước và các chuyên đề khác cho 8.896 lượt cán bộ tại huyện. Trong nhiệm kỳ đã kết nạp được 745 đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên trong toàn đảng bộ lên 2.517 đồng chí.
Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng được tăng cường, góp phần hạn chế tiêu cực, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh.
Công tác xây dựng chính quyền luôn được đổi mới, không ngừng nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành. Ủy ban nhân dân các cấp đã nâng cao vai trò quản lý, năng lực chỉ đạo, điều hành; chủ động đổi mới phương thức làm việc. Công tác cải cách hành chính được tiến hành thường xuyên; đã kiện toàn các phòng ban chuyên môn thuộc huyện, rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Thực hiện tốt cơ chế "Một cửa" ở huyện và cơ sở.
Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng được đổi mới, đa dạng các hình thức vận động đoàn viên, hội viên nắm bắt tư tưởng, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ.
2. Lãnh đạo phát triển nhanh, toàn diện (2006 - 2010)
Qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), với sự nỗ lực phấn đấu, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh; đời sống nhân dân được cải thiện; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; quốc phòng và an ninh được giữ vững; vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.., tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên.
Thực hiện Chỉ thị số 46-CT/W ngày 06/12/2004 của Bộ Chính trị và Kế hoạch của Tỉnh ủy về Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, từ ngày 19 21/10/2005, tại Hội trường huyện, Đảng bộ Bảo Thắng tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ XXV, nhiệm kỳ 2005 - 2010. Dự Đại hội có 209 đồng chí đại biểu đại diện gần 2.700 đảng viên thuộc 55 chi, đảng bộ cơ sở trong toàn huyện. Đại hội đã kiểm điểm việc thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIV; quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu trong 5 năm (2005 - 2010), biểu quyết 16 mục tiêu cụ thể và các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đến năm 2010. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XXV (nhiệm kỳ 2005 2010) gồm 35 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Thanh Dương đã trúng cử giữ chức Bí thư Huyện uỷ; các đồng chí: Dương Văn Tín, Lý Văn Hải trúng cử giữ chức Phó Bí thư Huyện uỷ khoá XXV. Đại hội bầu đoàn Đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XIII gồm 31 đại biểu chính thức, 02 đại biểu dự khuyết.
Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIV, Đảng bộ huyện Bảo Thắng đã xây dựng 6 chương trình công tác trọng tâm toàn khóa với 16 đề án để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và xây dựng hệ thống chính trị.
Kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXV:
Phát triển kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế phát triển đúng hướng, tăng gấp hơn 02 lần nhiệm kì trước. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao, ổn định và khá bền vững; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng định hướng. Nông nghiệp nông thôn phát triển bền vững. Từng bước chuyển dịch theo hướng tập trung, tăng cường, thâm canh sản xuất hàng hoá. Cơ cấu ngành trồng trọt của huyện đã có sự đột phá mạnh mẽ, đúng hướng. Hình thành và phát triển nhiều vùng sản xuất tập trung, chuyên canh.
Năm 2008, tuy bị ảnh hưởng của dịch bệnh, thiên tai nhưng chăn nuôi vẫn phát triển và giữ được mức tăng trưởng khá. Đàn gia súc, gia cầm tiếp tục phát triển, khẳng định bước đi đúng hướng của các chương trình, đề án trọng tâm của huyện đề ra. Bước đầu hình thành một số mô hình chăn nuôi trang trại áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến theo quy trình công nghiệp.
Sản xuất lâm nghiệp đạt kết quả cao. Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản được chú trọng đẩy mạnh và phát triển.
Công tác quy hoạch phát triển đô thị được triển khai thực hiện đồng bộ. Phong trào xây dựng trường học, làm nhà văn hóa thôn, kiên cố hoá kênh mương, làm đường giao thông nông thôn được các cấp các ngành, địa phương và nhân dân hưởng ứng tích cực. 15/15 xã, thị trấn có đường nhựa đến trung tâm, cơ bản 100% thôn có đường giao thông đi lại thuận tiện; 93,7% số hộ được dùng điện lưới Quốc gia.
Thương mại - dịch vụ có bước phát triển vượt bậc, nhất là dịch vụ cung ứng vật tư nông nghiệp và bao tiêu sản phẩm nông nghiệp cho nhân dân. Dịch vụ ngoài quốc doanh phát triển đa dạng, hệ thống chợ nông thôn phát triển rộng khắp, đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa của nhân dân.
Chất lượng dịch vụ bưu chính, viễn thông phát triển vượt bậc, đảm bảo thông tin liên lạc thuận tiện mọi lúc, mọi nơi. 15/15 xã, thị trấn có báo đọc trong ngày; dịch vụ Internet phát triển nhanh.
Trong nhiệm kỳ khóa XXV, công tác giải phóng mặt bằng là nhiệm vụ đột phá được Đảng bộ huyện tập trung chỉ đạo quyết liệt. Nhiều dự án đã hoàn thành đi vào sử dụng đóng góp rất lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Văn hóa xã hội
Về giáo dục và đào tạo: Mạng lưới trường học được quy hoạch, xây dựng và phát triển rộng khắp đến các thôn vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn của huyện tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh đến trường. Huyện tiếp tục duy trì vững chắc kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục THCS. Tỷ lệ học sinh từ 6 đến 14 tuổi đến trường đạt 99,9%. Tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học đạt 100%, tốt nghiệp THCS đạt 99,4%. Tỷ lệ tốt nghiệp THPT hàng năm đạt từ 80% trở lên. Số lượng học sinh giỏi, học sinh đạt giải qua các kỳ thi được duy trì và tăng qua các năm. Trong nhiệm kỳ đã xây dựng mới được 11 trường chuẩn Quốc gia, nâng tổng số trường đạt chuẩn Quốc gia trong toàn huyện lên 17 trường. 15/15 xã, thị trấn xây dựng được trung tâm học tập cộng đồng.
Công tác khuyến học, khuyến tài luôn được các cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo, khơi dậy truyền thống hiếu học, góp phần đẩy mạnh phong trào xã hội hoá giáo dục, phát triển được nhiều mô hình lớp bán trú dân nuôi ở các địa phương như: Phong Hải, Thái Niên, Tằng Loỏng, Gia Phú.
Công tác y tế có nhiều chuyển biến tích cực. Các chương trình mục tiêu quốc gia, cấp ngành về y tế tiếp tục được triển khai có hiệu quả trên diện rộng. Chất lượng khám chữa bệnh ngày càng được nâng cao, từng bước đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân trong và ngoài huyện.
Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, thông tin - tuyên truyền được đẩy mạnh, cơ bản phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" đã thực sự đi vào cuộc sống làm chuyển biến về nhận thức và nếp sống của các cộng đồng dân cư.
Các vấn đề an sinh xã hội được đảm bảo. Công tác chăm lo đến các gia đình có công, các đối tượng chính sách xã hội được các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm chỉ đạo, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân đồng tình hưởng ứng.
Công tác quốc phòng - an ninh được giữ vững, ổn định: Việc học tập, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về quốc phòng - an ninh được quan tâm triển khai trong toàn Đảng bộ. Cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang trong huyện đã nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ động đấu tranh và vận động nhân dân đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả các loại tội phạm, các hoạt động lợi dụng tôn giáo và âm mưu “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch.
Hoạt động của hệ thống chính trị tiếp tục có những chuyển biến tích cực. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng của huyện được đổi mới về hình thức, nội dung, phương pháp, đa dạng hóa các hình thức thông tin, tuyên truyền, triển khai, quán triệt học tập các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của tỉnh và địa phương.
Thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo Chỉ thị 06-CT/TW của Bộ Chính trị, Bảo Thắng đã có những chuyển biến tích cực từ nhận thức, ý thức rèn luyện đạo đức lối sống đến những hành động cụ thể. Đã xuất hiện nhiều gương điển hình tiên tiến học và làm theo Bác, có sức lan tỏa rộng lớn, chuyển biến tích cực trong các phong trào thi đua yêu nước.
Việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ được các cấp uỷ quan tâm chú trọng. Đến năm 2010 toàn Đảng bộ có 63 tổ chức cơ sở đảng với 3.293 đảng viên. Trong nhiệm kỳ, toàn huyện đã cử 445 đồng chí đi đào tạo về văn hóa, chính trị, chuyên môn, hàng trăm lượt cán bộ thôn, tổ dân phố, các đoàn thể được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.
Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng được Đảng bộ xác định là nhiệm vụ thường xuyên trong quá trình lãnh đạo của Đảng bộ. Qua công tác kiểm tra, giám sát đã giúp cho tổ chức cơ sở Đảng phát huy ưu điểm, kịp thời đề ra những giải pháp khắc phục thiếu sót, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh.
Công tác dân vận có nhiều tiến bộ và không ngừng đổi mới về phương pháp vận động quần chúng nhân dân. Huyện đã thành lập 02 Ban đại diện cộng đồng dân tộc Mông, dân tộc Dao, xây dựng nhiều chương trình, đề án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội để triển khai thực hiện có liên quan đến đời sống đại bộ phận các tầng lớp nhân dân.
Cùng với việc chú trọng công tác xây dựng Đảng, công tác lãnh đạo, xây dựng và củng cố chính quyền, nâng cao hiệu lực quản lý ở địa phương đạt được kết quả tích cực. Ngay sau khi thực hiện việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân cấp huyện (tháng 4/2009), UBND huyện đã sắp xếp, kiện toàn và ổn định bộ máy, xây dựng quy chế hoạt động, đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành; phân cấp các lĩnh vực quản lý Nhà nước cho UBND các xã, các phòng ban theo quy định.
Với sự đổi mới trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể đã góp phần huy động mọi lực lượng tham gia thực hiện tốt 6 chương trình công tác trọng tâm với 16 đề án của huyện, tạo phong trào thi đua sôi nổi, thiết thực trên tất cả các lĩnh vực.
3. Lãnh đạo phát triển nhanh, bền vững (2010 - 2023)
3.1. Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXVI (2010-2015)
Thực hiện Chỉ thị số 37 - CT/TW, ngày 04/8/2009 của Bộ Chính trị về đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, trên tinh thần đổi mới, từ ngày 26 - 28/7/2010, tại hội trường huyện, Đảng bộ huyện Bảo Thắng đã tổ chức đại hội đại biểu lần thứ XXVI.
Đại hội xác định rõ phương hướng, mục tiêu cơ bản trong nhiệm kỳ khóa XXVI (2010 - 2015): Tiếp tục xác định phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ hàng đầu; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp là trọng tâm; dịch vụ - thương mại là mũi nhọn; xây dựng hệ thống chính trị và đào tạo nguồn nhân lực là then chốt. Thực hiện tốt vấn đề an sinh xã hội, đẩy mạnh công tác giảm nghèo, xã hội hoá giáo dục, y tế. Gắn phát triển kinh tế-xã hội với củng cố quốc phòng an ninh.
Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát trong giai đoạn 2010 - 2015 và đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu đến năm 2015.
Đại hội bầu Ban Chấp hành khóa XXVI gồm 45 đồng chí. Hội nghị BCH lần thứ nhất họp bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 13 đồng chí. Đồng chí Đặng Phi Vân trúng cử giữ chức Bí thư Huyện uỷ; các đồng chí: Lưu Đức Cương, Lê Quang Minh trúng cử giữ chức Phó Bí thư Huyện uỷ khoá XXVI (nhiệm kỳ 2010 - 2015).
Kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXVI
Để cụ thể hóa nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXVI, Ban Chấp hành Đảng bộ Bảo Thắng đã ban hành 6 chương trình công tác trọng tâm toàn khóa với 14 Đề án, 9 Kế hoạch và 01 Nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính trị.
Trong 5 năm (2010 - 2015), nền kinh tế của huyện phát triển nhanh, ổn định, bền vững; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Nông nghiệp nông thôn từng bước chuyển dịch theo hướng tập trung, tăng cường thâm canh sản xuất hàng hoá. Trong trồng trọt, huyện đã tập trung khai thác các thế mạnh của địa phương; từng bước hình thành vùng sản xuất hàng hoá, như: Vùng lúa cao sản, ngô hàng hoá, vùng cây ăn quả, vùng cây cao su. Đã hình thành vùng chè chất lượng cao tại thị trấn Nông trường Phong Hải và xã Phú Nhuận.
Về sản xuất lâm nghiệp, Đảng bộ lãnh đạo hoàn thành vượt mức kế hoạch trồng rừng hàng năm. Trong 5 năm toàn huyện trồng mới 5.068 ha rừng, nâng độ che phủ đạt 50,54%; giá trị kinh tế thu được từ rừng đạt 182 tỷ đồng.
Hình thức chăn nuôi tập trung quy mô lớn phát huy được hiệu quả kinh tế cao. Toàn huyện có 122 trang trại được cấp giấy chứng nhận; 160 cơ sở chăn nuôi lợn, gia cầm có quy mô lớn. Diện tích nuôi thuỷ sản tăng 13,5 ha, sản lượng cá thịt đạt 1.822 tấn, vượt 1,2% mục tiêu Đại hội.
Đảng bộ huyện đã tập trung chỉ đạo phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị tham gia thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới. Đến hết năm 2015, có 4/12 xã đạt xã nông thôn mới: Phú Nhuận, Xuân Quang, Xuân Giao, Sơn Hải.
Trong 5 năm, nhiều công trình có ý nghĩa quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh được đầu tư xây dựng. Mở mới và nâng cấp 342,5 km đường giao thông nông thôn, 33 công trình thủy lợi, 92 điểm trường, 71 nhà công vụ, 08 trạm y tế xã, thị trấn; hoàn thành đưa vào sử dụng hệ thống cấp nước sinh hoạt tại các xã Sơn Hà, Xuân Giao, Gia Phú, Sơn Hải và thị trấn Tằng Loỏng. Đến năm 2015, toàn huyện có 98% số hộ được sử dụng điện lưới quốc gia.
Hoạt động tài chính - tín dụng ngân hàng và thương mại, dịch vụ duy trì ở mức tăng trưởng cao, thực hiện có hiệu quả.
Trong nhiệm kỳ khóa XXVI, công tác giải phóng mặt bằng tiếp tục được Ban Chấp hành Đảng bộ huyện tập trung chỉ đạo quyết liệt, với 129 công trình, dự án, tổng số đất thu hồi 689,9 ha, 3.857 hộ bị ảnh hưởng, trong đó 1.853 hộ phải di chuyển nhà ở. Với sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của cả hệ thống chính trị, 100% số hộ đã được sắp xếp và ổn định đời sống.
Lĩnh vực văn hoá - xã hội, thực hiện chính sách người có công được quan tâm đúng mức, đời sống văn hoá, tinh thần của Nhân dân được nâng lên:
Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" được Nhân dân hưởng ứng tích cực, phát triển cả về số lượng và chất lượng. Phong trào thể dục, thể thao quần chúng được đẩy mạnh. Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và các lễ hội truyền thống có nhiều chuyển biến tích cực.
Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa được tăng cường. Toàn huyện có 95,1% thôn, tổ dân phố có nhà văn hóa. Hệ thống truyền thanh huyện, xã, thị trấn được đầu tư thiết bị công nghệ, đảm bảo phủ sóng truyền thanh tới 100% số hộ dân trong huyện.
Quy mô mạng lưới trường, lớp học được đầu tư mở rộng từng bước đáp ứng nhu cầu học tập của con em các dân tộc trong huyện. Duy trì bền vững kết quả phổ cập giáo dục tiểu học chống mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Năm 2013 huyện đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Tỉ lệ hoàn thành chương trình giáo dục Mầm non, Tiểu học và tốt nghiệp THCS luôn duy trì ở mức trên 99%, tỉ lệ tốt nghiệp THPT trên 95%. Đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên cơ bản đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục. Trong nhiệm kỳ, xây dựng mới 21 trường học đạt chuẩn quốc gia; nâng tổng số trường đạt chuẩn trong toàn huyện lên 38 trường, vượt 37,5% mục tiêu đại hội.
Công tác y tế được quan tâm, chất lượng chăm sóc, bảo vệ sức khỏe Nhân dân từng bước được nâng lên. 100% xã, thị trấn có bác sỹ phụ trách; 262/264 thôn, tổ dân phố có nhân viên y tế thôn hoạt động hiệu quả. Hết năm 2015, 15/15 xã, thị trấn đạt tiêu chí Quốc gia về y tế, đạt 100% mục tiêu đại hội.
Công tác xóa đói, giảm nghèo được quan tâm chú trọng. Hoạt động từ thiện, nhân đạo được các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể triển khai thực hiện hiệu quả, được Nhân dân đồng tình ủng hộ. Chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, đặc biệt là chính sách đối với hộ nghèo được triển khai thực hiện đúng quy định, đời sống Nhân dân từng bước được cải thiện.
Công tác quốc phòng, an ninh được giữ vững, ổn định. Quán triệt và tổ chức thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương và tỉnh Lào Cai về nhiệm vụ quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; triển khai biện pháp chống âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. An ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
Hoạt động đối ngoại được mở rộng, từng bước đi vào chiều sâu, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh của huyện.
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị với nội dung và phương thức hoạt động tiếp tục được đổi mới, phù hợp và hiệu quả.
Trong nhiệm kỳ, công tác giáo dục chính trị tư tưởng được đẩy mạnh và đổi mới về phương thức hoạt động. Quán triệt và tổ chức thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, Tỉnh uỷ và Huyện uỷ bằng nhiều hình thức đến 100% tổ chức cơ sở đảng và toàn thể cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ gắn với xây dựng chương trình hành động để thực hiện, góp phần đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị đã trở thành nội dung sinh hoạt chính trị sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân, tạo niềm tin và sự chuyển biến tích cực trong Đảng và toàn xã hội; lề lối, tác phong công tác và thái độ phục vụ Nhân dân của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp được nâng lên.
Công tác củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo. Trong nhiệm kỳ đã kết nạp 995 đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên toàn đảng bộ lên 4.141 đồng chí; 100% thôn, tổ dân phố có chi bộ độc lập.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được tăng cường, mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm; Hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát được nâng cao.
Công tác dân vận có nhiều tiến bộ và không ngừng đổi mới về phương pháp vận động quần chúng Nhân dân. Nhận thức của cấp ủy các cấp về vai trò của công tác dân vận có nhiều chuyển biến tiến bộ.
MTTQ và các đoàn thể Nhân dân đã bám sát nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ, đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động với mục tiêu hướng mạnh về cơ sở, từng bước thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh. Tăng cường tuyên truyền, vận động Nhân dân chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy tốt quyền làm chủ của Nhân dân.
Uỷ ban nhân dân các cấp đã nâng cao vai trò quản lý, năng lực chỉ đạo, điều hành; chủ động đổi mới phương thức làm việc, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho cơ sở. Bộ máy các cơ quan chuyên môn thuộc huyện được sắp xếp theo hướng tinh gọn, hoạt động ngày càng hiệu quả. Ý thức trách nhiệm, thái độ, tác phong làm việc, phục vụ nhân dân của công chức được nâng lên.
3.2. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXVII
Thực hiện Chỉ thị 36-CT/TW của Bộ Chính trị về tổ chức Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; từ ngày 24/6 - 26/6/2015, tại hội trường lớn của huyện, Đảng bộ huyện Bảo Thắng đã tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2015 - 2020.
Với chủ đề: “Đoàn kết - Dân chủ - Sáng tạo. Xây dựng Bảo Thắng là huyện trọng điểm của tỉnh”, đại hội đã thông qua các văn kiện do Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXVI trình tại đại hội, các báo cáo tổng hợp ý kiến tham gia vào các văn kiên trình tại Đại hội Đảng bộ tỉnh và Trung ương; mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp trong nhiệm kỳ 2015 - 2020.
Đại hội đề ra 24 mục tiêu chủ yếu và các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đến năm 2020. Xây dựng và ban hành 6 Chương trình với 16 Đề án công tác toàn khóa (2015 - 2020).
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXVII gồm 43 đồng chí. Đại hội tiến hành quy trình bầu trực tiếp Bí thư Huyện ủy, đồng chí Nguyễn Quốc Trị, Bí thư Huyện ủy khóa XXVI tiếp tục được tín nhiệm bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy khóa XXVII. Đại hội đã bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XV, gồm 30 đại biểu chính thức và 03 đại biểu dự khuyết.
Hội nghị lần thứ nhất BCH Đảng bộ huyện đã bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 12 đồng chí, bầu các Phó Bí thư Huyện ủy và UBKT, Chủ nhiệm UBKT Huyện ủy. Đồng chí Vũ Văn Tuấn và đồng chí Đỗ Đức Liệu được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư Huyện ủy khóa XXVII, nhiệm kỳ 2015 - 2020.
Những kết quả đạt được sau 5 năm thực hiện nghị quyết đại hội lần thứ XXVII (nhiệm kỳ 2015 - 2020)
Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXVII đã ban hành 06 chương trình, 16 đề án trọng tâm, 05 chương trình hành động, 03 kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện cho cả giai đoạn 2016-2020. Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp đã được triển khai đồng bộ với quyết tâm chính trị cao và đạt được kết quả quan trọng, cụ thể như sau:
Kinh tế phát triển nhanh, ổn định: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, giảm tỷ trọng nông, lâm, thủy sản từ 12,6% xuống 10,7%, tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) đạt 13,55%, GRDP bình quân đầu người đạt 105,4 triệu đồng. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 22,8 triệu đồng/năm lên 48,2 triệu đồng/năm.
Nông, lâm nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, bước đầu hình thành mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đạt trên 1.700 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân 6,11%/năm. Đã hình thành vùng sản xuất hàng hoá như: Vùng lúa cao sản 600 ha; ngô hàng hoá 800 ha; vùng rau chuyên canh... tập trung ở các xã: Phú Nhuận, Gia Phú, Xuân Quang, Thái Niên. Huyện đã xây dựng được 15 sản phẩm OCOP và các mô hình rau, hoa ứng dụng công nghệ cao.
Chăn nuôi phát triển theo hướng tập trung trang trại, gia trại gắn với bảo vệ môi trường. Toàn huyện có 420 trang trại chiếm 74% tổng số trang trại toàn tỉnh. Duy trì và khai thác có hiệu quả 728 ha diện tích thủy sản.
Hoàn thành rà soát quy hoạch 3 loại rừng với tổng diện tích 40.100 ha, giá trị kinh tế thu được đạt trên 270 tỷ đồng.
Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai thiết thực, hiệu quả, bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc. Trong nhiệm kỳ, toàn huyện đã xây dựng mới 8 xã đạt chuẩn nông thôn mới, nâng tổng số xã đạt chuẩn nông thôn mới lên 11/11 xã, đạt 110% mục tiêu Đại hội. Đến hết năm 2020 đã hoàn thành 9/9 tiêu chí huyện nông thôn mới.
Sản xuất công nghiệp tiểu thủ công nghiệp và xây dựng tiếp tục phát triển khá, góp phần nâng dần tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế: Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 21.200 tỷ đồng, tiểu thủ công nghiệp đạt 750 tỷ đồng. Toàn huyện có 05 nhà máy chế biến tinh dầu quế, 250 cơ sở sản xuất chế biến lương thực, thực phẩm; 10 cơ sở chế biến ngô, sắn; 130 cơ sở chế biến lâm sản; 02 nhà máy chế biến chè; 90 cơ sở gia công cơ khí, 31 cơ sở khai thác cát đá, xây dựng,…
Hoạt động thương mại, dịch vụ tiếp tục phát triển: giá trị ngành thương mại - dịch vụ đạt 3.200 tỷ đồng, tăng gấp 2 lần so với năm 2015. Toàn huyện có 15 chợ, 22 cửa hàng xăng dầu, 4.400 hộ kinh doanh thương mại, 03 siêu thị tại thị trấn Phố Lu. Hoàn thành quy hoạch, xây dựng khu di tích lịch sử, danh thắng cấp tỉnh, khu tâm linh như: Đồn Phố Lu, thác Đầu Nhuần, Chùa Liên Hoa, Đền Đồng Ân, Đền Cô Ba,…
Kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư xây dựng: Thực hiện và quản lý quy hoạch nông thôn mới tấm nhìn đến năm 2040. Quy hoạch chi tiết Khu đô thị Cường Thịnh- thị trấn Phố Lu, Tỉnh lộ 152 và thôn Làng Chưng- xã Sơn Hà. Điều chỉnh quy hoạch chung thị trấn Tằng Loỏng; quy hoạch xây dựng nông thôn mới các xã; điều chỉnh địa giới hành chính, sáp nhập xã Phố Lu vào thị trấn Phố Lu; điều chỉnh 18 thôn thuộc xã Gia Phú về thành phố Lào Cai; điều chỉnh địa giới thị trấn Tằng Loỏng, xã Xuân Giao,…
Tài nguyên môi trường, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu có sự chuyển biến tích cực: Tập trung chỉ đạo thực hiện tốt công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư với trên 51 dự án, tổng diện tích đất bị thu hồi 128 ha, trên 1.000 hộ dân bị ảnh hưởng, với tổng kinh phí bồi thường và hỗ trợ tái định cư là 240 tỷ đồng. Tài nguyên, khoáng sản được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Thu ngân sách nhà nước và hoạt động tín dụng ngân hàng tăng trưởng khá. Hoạt động tín dụng có sự tăng trưởng cao, các ngành ngân hàng đã vận dụng linh hoạt các chính sách, quy định để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp và hộ sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Văn hoá- xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống văn hoá, tinh thần của Nhân dân được nâng lên:
100% thôn, tổ dân phố có nhà văn hóa, 100% xã có thiết chế văn hóa theo tiêu chí nông thôn mới. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được triển khai sâu rộng. Toàn huyện có 15 trạm truyền thanh cấp xã, 433 cụm loa truyền thanh; 03 điểm giao dịch của Trung tâm viễn thông, 110 trạm phát sóng, 01 bưu điện trung tâm huyện và 14 điểm bưu điện văn hóa xã, góp phần đưa các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
Chất lượng giáo dục, đào tạo luôn đứng vị trí trong tốp đầu của tỉnh: Phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi, tiểu học mức độ 3, trung học cơ sở mức độ 2 được duy trì; Có 55/73 trường đạt chuẩn Quốc gia, đạt 100% mục tiêu đại hội. Chất lượng giáo dục toàn diện, chất lượng đại trà ổn định bền vững; số lượng học sinh giỏi các cấp tiếp tục tăng. Tỷ lệ tốt nghiệp THCS đạt 99,8%, tốt nghiệp THPT hằng năm đạt 98-99%. Số lượng, cơ cấu giáo viên từng bước được điều chỉnh hợp lý giữa các vùng; 84,9% cán bộ quản lý có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên. Tỷ lệ đảng viên trong các cơ sở giáo dục đạt 53,4%. Hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập có nhiều chuyển biến tích cực.
Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe của Nhân dân được quan tâm: Các trạm y tế xã, thị trấn được cải tạo, nâng cấp, đầu tư trang thiết bị và nhân lực đảm bảo công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho Nhân dân. Duy trì bền vững 100% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Chỉ đạo quyết liệt các biện pháp phòng chống dịch trên địa bàn.
Ứng dụng khoa học và công nghệ được đẩy mạnh: Phát triển mô hình sản xuất rau, hoa ứng dụng công nghệ cao; thực hiện thành công việc chuyển đổi những cây trồng có giá trị kinh tế thấp sang trồng các cây trồng có năng suất, chất lượng cao. Triển khai thực hiện ứng dụng phần mềm liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính, ứng dụng phần mềm quản lý văn bản, hồ sơ; thực hiện giảng dạy trên giáo án điện tử...
Công tác giảm nghèo, đào tạo nghề, giải quyết việc làm và thực hiện chính sách an sinh xã hội đạt nhiều kết quả. Công tác đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm được quan tâm chỉ đạo với nhiều giải pháp đồng bộ. Số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp, lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đều tăng so với năm 2015. Việc thực hiện chính sách cho người có công, chế độ, chính sách cho các đối tượng bảo trợ xã hội được thực hiện tốt.
Quân sự, quốc phòng được củng cố, chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang được nâng lên. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm và giữ vững, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được chú trọng, đã từng bước nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của Nhân dân. Hoạt động đối ngoại được tăng cường.
Sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm: Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên ngày càng được nâng cao. Việc tuyên truyền vận động đoàn viên, hội viên và Nhân dân tích cực thực hiện các cuộc vận động, các phong trào thi đua ngày càng hiệu quả.
Hoạt động giám sát và phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền các cấp trong sạch vững mạnh của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội được triển khai thực hiện tốt. Hoạt động tiếp xúc, đối thoại với Nhân dân được chú trọng.
Hoạt động của chính quyền các cấp và các cơ quan tư pháp ngày càng hiệu lực, hiệu quả. Việc ban hành nghị quyết, xây dựng Kế hoạch công tác, tổ chức các kỳ họp, thực hiện chức năng giám sát... đảm bảo khoa học, sát yêu cầu nhiệm vụ, đúng quy định.
Công tác chỉ đạo, điều hành của Uỷ ban nhân dân các cấp luôn sâu sát, linh hoạt, hiệu lực, hiệu quả trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, cải cách hành chính, xây dựng huyện ngày càng phát triển. Tinh thần trách nhiệm, đạo đức thi hành công vụ của cán bộ, công chức ngày càng được nâng lên. Công tác cải cách hành chính được thực hiện đồng bộ, góp phần nâng cao hiệu lực hiệu quả của các cơ quan trong hệ thống chính trị.
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được thực hiện toàn diện và đạt kết quả tích cực
Công tác chính trị tư tưởng được đổi mới, góp phần nâng cao nhận thức và củng cố niềm tin cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân: Việc triển khai học tập, quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương và công tác bồi dưỡng, cập nhật kiến thức được đổi mới cả về nội dung và hình thức. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 05 CT/TW của Bộ Chính trị gắn với Nghị quyết trung ương 4 (khóa XII) đã trở thành nội dung sinh hoạt chính trị sâu rộng.
Công tác tổ chức xây dựng đảng được tăng cường, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng được nâng lên: Tập trung kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, đoàn thể chính trị- xã hội và tổ chức xã hội. Tính đến 2020, toàn huyện có 54 tổ chức cơ sở Đảng với trên 5.000 đảng viên. Công tác kiểm tra, giám sát được thực hiện toàn diện và từng bước đi vào chiều sâu . Thực hiện nghiêm việc kiểm tra, xử lý kỷ luật đối với tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Việc thực hiện các kết luận kiểm tra, giám sát đảm bảo nghiêm túc, triệt để. Công tác dân vận được đổi mới theo hướng gần dân, sát cơ sở, góp phần tạo sự đồng thuận trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.
3.3. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXVIII
Thực hiện Chỉ thị 35-CT/TW, ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về tổ chức Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; từ ngày 15/6 - 16/6/2020, tại hội trường lớn của huyện, Đảng bộ huyện Bảo Thắng đã tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII, nhiệm kỳ 2020 - 2025.
Với chủ đề: “Dân chủ - Đoàn kết -Sáng tạo”, đại hội đã thông qua các văn kiện do Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXVII trình tại đại hội khóa XXVIII, các báo cáo tổng hợp ý kiến tham gia vào các văn kiên trình tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai khóa XVI và Trung ương; mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp trong nhiệm kỳ 2020 - 2025.
Đại hội đề ra 24 mục tiêu chủ yếu và các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đến năm 2025. Xây dựng và ban hành 8 Đề án, 6 Nghị quyết chuyên đề, 02 Kế hoạch trọng tâm giai đoạn 2020 - 2025
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXVIII với 43 đồng chí và đồng chí Trần Minh Sáng được bầu giữ chức Bí thư Huyện ủy bảo Thắng khóa XXVIII. Đại hội đã bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2020-2025 gồm 31 đại biểu chính thức và 03 đại biểu dự khuyết.
Hội nghị lần thứ nhất BCH Đảng bộ huyện đã bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 13 đồng chí, bầu các Phó Bí thư Huyện ủy và UBKT, Chủ nhiệm UBKT Huyện ủy. Đồng chí Ngô Minh Quế và đồng chí Nguyễn Quang Úy được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư Huyện ủy khóa XXVIII, nhiệm kỳ 2020 - 2025.
Những kết quả đạt được sau 2,5 năm thực hiện nghị quyết đại hội lần thứ XXVIII (nhiệm kỳ 2020 - 2025)
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXVIII đã ban hành 8 Đề án, 6 Nghị quyết chuyên đề, 02 Kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện cho cả giai đoạn 2020-2025. Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp đã được triển khai đồng bộ với quyết tâm chính trị cao và đạt được kết quả quan trọng, cụ thể như sau:
Kinh tế phát triển nhanh, ổn định: Tốc độ tăng trưởng kinh tế huyện đạt 14,36% (đạt 98,36% mục tiêu đại hội). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, giảm tỷ trọng ngành nông, lâm, thủy sản từ 17,9% xuống 16,74%, tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng từ 38,9% lên 39,98%, tăng tỷ trọng thương mại - dịch vụ từ 43,2% lên 43,28%. Giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích canh tác đạt 106 triệu đồng (đạt 88,3% mục tiêu đại hội); Thu nhập bình quân đầu người đạt 64,6 triệu đồng/người/năm (đạt 75% mục tiêu đại hội); Tỷ lệ hộ nghèo còn lại là 6,52 % (đạt 58,28% mục tiêu đại hội); Tỷ lệ hộ khá giàu (có mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn trung bình toàn huyện) là 44,82 % (đạt 89,64% mục tiêu đại hội).
Huyện duy trì và phát huy hiệu quả các vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, như: vùng rau an toàn (100ha), vùng cây ăn quả (3.000 ha), vùng chè hàng hóa (509 ha), vùng quế (8.000 ha), các mô hình sản xuất có ứng dụng công nghệ cao ...Chăn nuôi phát triển theo hướng trang trại, gia trại gắn với ứng dụng khoa học kỹ thuật. Toàn huyện có trên 400 trang trại, trong đó có 110 trang trại cấp tỉnh. Các hình thức tổ chức sản xuất có bước đột phá mạnh mẽ về số lượng, chất lượng với 54 hợp tác xã và các tổ liên kết, tổ hợp tác. Công tác quản lý, bảo vệ rừng được thực hiện hiệu quả. Diện tích có rừng toàn huyện là 36.768 ha, trong đó (rừng tự nhiên: 11.643 ha; rừng trồng: 25.125 ha). Tỷ lệ che phủ rừng đạt 56,13 % (đạt 101% mục tiêu đại hội).
Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai hiệu quả, Sau khi đạt chuẩn huyện nông thôn mới năm 2020, BCH Đảng bộ huyện tiếp tục xây dựng huyện nông thôn mới nâng cao vào năm 2025. Với khẩu hiệu hành động " Đường rộng hè thoáng văn minh/ Xóm thôn không rác, nhà nhà chung tay" được nhân dân đồng tình ủng hộ, đến nay đã làm 426 km đường điện, 359 km đường hoa, 213 km đường cắm cờ theo mẫu, mở rộng đường GTNT từ 3m lên 7m được 150 km.
Sản xuất công nghiệp TTCN và Xây dựng tiếp tục phát triển khá, góp phần nâng dần tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế. Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn huyện đạt 27, 880 tỷ đồng, đạt 82% MT NQĐH. Hệ thống hạ tầng huyện ngày càng hoàn thiện. Để xây dựng thị trấn Phố Lu đạt tiêu chí đô thị loại IV, huyện đã đầu tư và cơ bản đã hoàn thành các dự án: Hồ Trung tâm, Khu đô thị Cường Thịnh, Hạ tầng trung tâm xã Sơn Hải...
Huyện đã hoàn thành xây dựng cơ sở dữ liệu về đất đai trên địa bàn. Công tác quản lý đất đai được thực hiện theo đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được UBND tỉnh phê duyệt, khai thác có hiệu quả quỹ đất công phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế, xã hội. Công tác xử lý nước thải ở khu công nghiệp Tằng Loỏng, rác thải tại bệnh viện huyện được xử lý đúng quy định. Các nhà máy tại Khu công nghiệp Tằng Loỏng đã hoàn thành đầu tư xây dựng hạ tầng, thiết bị xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại, trạm quan trắc khí thải tự động. Tỷ lệ lượng chất thải rắn sinh hoạt tại khu dân cư nông thôn tập trung được thu gom, xử lý với hình thức phù hợp và đảm bảo vệ sinh môi trường đạt 96%, bằng 100% mục tiêu nghị quyết đại hội.
Văn hoá- xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống văn hoá, tinh thần của Nhân dân được nâng lên:
100% thôn, tổ dân phố có nhà văn hóa, 100% xã có thiết chế văn hóa theo tiêu chí nông thôn mới. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được triển khai sâu rộng. Toàn huyện có 14 trạm truyền thanh cấp xã, 436 cụm loa truyền thanh; 04 điểm giao dịch của Trung tâm viễn thông, 110 trạm phát sóng, 01 bưu điện trung tâm huyện và 14 điểm bưu điện văn hóa xã, góp phần đưa các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Nhiều giá trị văn hoá phi vật thể của huyện được công nhận. Huyện đã huy động nguồn lực xã hội hóa để khởi công công trình nâng cấp và đã hoàn thành giai đoạn 1 đối với Đền Đồng Ân (xã Thái Niên) và Đền Cô Ba (xã Phú Nhuận) là những công trình đã được UBND tỉnh công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được duy trì và phát huy. Tỷ lệ hộ gia đình văn hóa đạt 90,7%, bằng 100,78% MT NQĐH; Tỷ lệ thôn, tổ dân phố đạt tiêu chuẩn văn hóa đạt 97,4%, bằng 101,46% MT NQĐH. Huyện đã tổ chức thành công các Lễ hội đảm bảo an toàn, tiết kiệm, đậm đà bản sắc văn hóa các dân tộc.
Chất lượng giáo dục, đào tạo luôn đứng tốp đầu của tỉnh: Tỷ lệ chuyên cần luôn được đảm bảo trên 98%, chất lượng giáo dục đại trà và chất lượng mũi nhọn tiếp tục nằm trong top đầu của tỉnh. Toàn huyện hiện có 61/73 trường đạt chuẩn, đạt tỷ lệ 84% (đạt 98,8% mục tiêu đại hội). Tỷ lệ thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục phổ thông và tương đương là 75,20%. Tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi đi học mẫu giáo là 99,9%; tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi (6-14 tuổi) đến trường là 99,75%. Về xây dựng trường trọng điểm chất lượng cao (trường Mầm non Bình Minh, Trường tiểu học số 3 Thị trấn Phố Lu, Trường THCS thị trấn Phố Lu). Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên các nhà trường đảm bảo đủ số lượng, cơ cấu bộ môn.
Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe của Nhân dân được quan tâm: Huyện đã tập trung đầu tư củng cố, hoàn thiện và phát triển hệ thống y tế từ huyện đến cơ sở. Duy trì hiệu quả hoạt động của các đơn vị y tế; 14/14 xã, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia về y tế. Chủ động hợp tác với Bệnh viện Đại học Y Hà Nội để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh của Bệnh viện đa khoa huyện. Số bác sỹ/vạn dân đạt 6,3 bác sỹ/vạn dân, bằng 85 % MT NQĐH. Số giường bệnh/vạn dân đạt 35 giường, bằng 87,5% MT NQĐH; Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể chiều cao trên tuổi 20,1%, bằng 84,58% MT NQĐH; Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể cân nặng trên tuổi 11,5%, bằng 104,35% MT NQĐH. Tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 85,6%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,16%, đạt 98% mục tiêu nghị quyết Đại hội.
Công tác quốc phòng tiếp tục được tăng cường; chủ quyền quốc gia được giữ vững. Công tác quân sự địa phương thực hiện đảm bảo kế hoạch. Huyện đã tổ chức tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ hằng năm đảm bảo theo quy định của pháp luật và kế hoạch tỉnh giao. Chỉ đạo tổ chức thành công các cuộc luyện tập, diễn tập, tổ chức ra quân huấn luyện và chỉ đạo các đơn vị DQTV thực hiện tốt công tác huấn luyện, tổ chức hội thi mô hình học cụ tạo khí thế thi đua sôi nổi cho các đối tượng lực lượng vũ trang. Thực hiện tốt công tác bồi dưỡng kiến thức Quốc phòng - An ninh cho các đối tượng và giáo dục quốc phòng toàn dân theo quy định, do vậy đã tạo được sự đồng thuận về nhận thức, tư tưởng, trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Huyện đã tổ chức thành công diễn tập khu vực phòng thủ huyện năm 2022, được tỉnh và Quân khu 2 đánh giá xuất sắc.
Đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội Huyện đã chỉ đạo lực lượng công an huyện và các xã, thị trấn chủ động nắm tình hình, giải quyết kịp thời các vấn đề về an ninh, trật tự an toàn xã hội, không để xảy ra đột xuất, bất ngờ hoặc tạo thành điểm nóng, phức tạp. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, công an huyện đã khởi tố điều tra 113 vụ/ 153 bị can, đảm bảo đúng người, đúng tội, không xảy ra tình trạng oan sai. Tỷ lệ điều tra, khám phá đối với án ít nghiêm trọng và nghiêm trọng đạt 92,3%, bằng 102,54% MT NQĐH; đối với án rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng là 100%. 14/14 xã, thị trấn đạt xuất sắc trong phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ.
Hoạt động đối ngoại ngày càng rộng mở Huyện tiếp tục duy trì mối quan hệ hợp tác, kết nghĩa với các địa phương trong và ngoài tỉnh, đồng thời thường xuyên trao đổi, hợp tác với huyện Hà Khẩu, huyện Thạch Bình, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) trong phát triển kinh tế, hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo an ninh biên giới. Qua đó thắt chặt tình càm giữa các bên, mở ra triển vọng hợp tác trong thời gian tới.
Sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm: Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên ngày càng được nâng cao. Việc tuyên truyền vận động đoàn viên, hội viên và Nhân dân tích cực thực hiện các cuộc vận động, các phong trào thi đua ngày càng hiệu quả; các hoạt động nhân đạo, từ thiện chăm lo cho các gia đình chính sách, người có hoàn cảnh khó khăn... gắn với xây dựng nông thôn mới. Hoạt động giám sát và phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền các cấp trong sạch vững mạnh của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội được triển khai thực hiện tốt. Việc thực hiện Quy chế dân chủ được thực hiện tốt. Hoạt động tiếp xúc, đối thoại với Nhân dân được chú trọng.
Hoạt động của chính quyền các cấp và các cơ quan tư pháp ngày càng hiệu lực, hiệu quả. Việc ban hành nghị quyết, xây dựng Kế hoạch công tác, tổ chức các kỳ họp, thực hiện chức năng giám sát... đảm bảo khoa học, sát yêu cầu nhiệm vụ, đúng quy định. Công tác chỉ đạo, điều hành của Uỷ ban nhân dân các cấp luôn sâu sát, linh hoạt, hiệu lực, hiệu quả trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, cải cách hành chính, xây dựng huyện ngày càng phát triển. Tinh thần trách nhiệm, đạo đức thi hành công vụ của cán bộ, công chức ngày càng được nâng lên. Công tác cải cách hành chính được thực hiện đồng bộ, góp phần nâng cao hiệu lực hiệu quả của các cơ quan trong hệ thống chính trị.
Công tác xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng
Công tác tư tưởng, chính trị được đổi mới góp phần nâng cao nhận thức và củng cố niềm tin cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân: Việc triển khai học tập, quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương và công tác bồi dưỡng, cập nhật kiến thức được đổi mới cả về nội dung và hình thức. Việc học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ngày càng đi vào chiều sâu. Nhằm cụ thể hóa Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện chỉ thị số 05 -CT/TW của Bộ chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với Nghị quyết trung ương 4 (khóa XII, XIII) đã trở thành nội dung sinh hoạt chính trị sâu rộng, qua đó đã có nhiều cách làm hay, hiệu quả của các tập thể, cá nhân trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị của huyện.
Công tác tổ chức xây dựng đảng được tăng cường, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng được nâng lên: Tập trung kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, đoàn thể chính trị- xã hội và tổ chức xã hội. Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh uỷ về sắp xếp tổ chức cơ sở đảng, Ban Thường vụ Huyện uỷ đã giải thể 22 chi bộ cơ sở để thành lập 04 đảng bộ cơ sở; chuyển giao 03 chi bộ cơ sở về trực thuộc Đảng bộ các xã, thị trấn; chuyển giao 02 tổ chức cơ sở đảng về trực thuộc Đảng bộ khối Cơ quan - Doanh nghiệp tỉnh. Sau sắp xếp tổ chức bộ máy các chi, đảng bộ cơ sở hiện nay còn 32 tổ chức cơ sở đảng. Tỷ lệ đảng viên/ dân số đạt 4,9/5,5 %, đạt 89,09 % mục tiêu đại hội. Tỷ lệ chính quyền đạt TSVM đạt 100%, đạt 100% mục tiêu đại hội. Tỷ lệ MTTQ và các đoàn thể cấp huyện đạt TSVM đạt 90% , đạt 100% mục tiêu đại hội; MTTQ và các đoàn thể cơ sở đạt từ khá trở lên đạt 80% đạt 100% mục tiêu đại hội.
Công tác kiểm tra, giám sát được thực hiện toàn diện và từng bước đi vào chiều sâu trọng tâm, trọng điểm. Thực hiện nghiêm việc kiểm tra, xử lý kỷ luật đối với tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Việc thực hiện các kết luận kiểm tra, giám sát đảm bảo nghiêm túc, triệt để.
Công tác dân vận được đổi mới theo hướng gần dân, sát cơ sở, góp phần tạo sự đồng thuận trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Công tác tuyên vận gắn với phong trào thi đua “ Dân vận khéo” trong xây dựng nông thôn mới được triển khai thực hiện nền nếp, hiệu quả ở các xã, thị trấn với nhiều cách làm hay, sáng tạo, tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện vệ sinh môi trường, thay đổi tập quán lạc hậu, vận động nhân dân hiến đất mở rộng đường giao thông nông thôn, làm đường điện, đường hoa, không cưới tảo hôn, đã được các tổ tuyên vận tuyên truyền vận động nhân dân đồng thuận thực hiện.
Sau 2,5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXVIII nhiệm kỳ 2020-2025 đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Đã cơ bản hoàn thành tốt các mục tiêu Đại hội, trong tổng số 24 mục tiêu Nghị quyết Đại hội có 12 mục tiêu vượt 100%, 4 mục tiêu đạt 100%, 6 mục tiêu từ 70% trở lên, 1 mục tiêu đạt 50% (xây dựng xã NTM nâng cao), 1 mục tiêu dưới 50% (tổng vốn đầu tư toàn xã hội 38,3%).
IX. Phát huy truyền thống 75 năm Đảng bộ huyện, phấn đấu xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; dân chủ, đoàn kết, sáng tạo; xây dựng Bảo Thắng là đơn vị dẫn đầu trong các huyện, thị xã của tỉnh Lào Cai.
1. Những kinh nghiệm quý của Đảng bộ huyện Bảo Thắng qua 75 năm xây dựng và trưởng thành
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện 75 năm qua (1948 - 2023), nhân dân các dân tộc huyện Bảo Thắng luôn đoàn kết, không ngừng phấn đấu vượt qua khó khăn thử thách để đi lên. Từ một địa phương có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tự cung, tự cấp, manh mún, hệ thống kết cấu hạ tầng thấp kém, đến nay Bảo Thắng đã trở thành huyện có nền kinh tế nông nghiệp phát triển khá và ổn định, kết cấu hạ tầng đồng bộ; đường ô tô, điện lưới quốc gia đã vươn tới hầu khắp các xã và thôn. Đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân này cảng được cải thiện và nâng cao.
Đạt được những thành tựu trên, trước hết là do Ban Chấp hành Đảng bộ huyện cùng các cấp, các ngành từ huyện đến cơ sở luôn có sự đoàn kết, thống nhất cao, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Có quan điểm chỉ đạo đúng đắn, phương pháp lãnh đạo khoa học, phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương. Thực hiện phương châm "nói đi đôi với làm"; luôn hướng mạnh về cơ sở. Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng và Quy chế dân chủ ở cơ sở; khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực và sự giúp đỡ của Tỉnh ủy, HĐND, UBND và các cơ quan, các sở, ban, ngành của tỉnh.
Trải qua 75 năm xây dựng và phát triển, với 28 kỳ đại hội, đến năm 2023, Đảng bộ Bảo Thắng đã có trên 5.400 đảng viên, sức chiến đấu của tổ chức Đảng không ngừng được nâng lên, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng bộ không ngừng được trưởng thành và được tổ chức Đảng quan tâm đào tạo bồi dưỡng, cơ bản đáp ứng vai trò lãnh đạo nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Một là: Quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng, nắm vững tiềm năng, lợi thế của huyện, đề ra chủ trương, nghị quyết đúng đắn phù hợp với địa phương; đồng thời tăng cường đổi mới phương thức lãnh đạo đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới. Đây là bài học quan trọng hàng đầu được rút ra qua 75 năm lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ Bảo Thắng.
Hai là: Không ngừng xây dựng tổ chức Đảng lớn mạnh, trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo chính quyền và Nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị trong mỗi thời kỳ cách mạng. Tăng cường đoàn kết trong Đảng, trong đội ngũ cán bộ và trong Nhân dân, coi đó là nhân tố quan trọng quyết định sự thành công trong thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Ba là: Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng. Chú trọng công tác đào tạo, quy hoạch, sử dụng đội ngũ cán bộ tại chỗ một cách phù hợp, kết hợp tốt vai trò cán bộ tại chỗ với cán bộ tăng cường. Bố trí cán bộ đúng tầm, đúng việc, sử dụng cán bộ cốt cán, người có uy tín trong đồng bào các dân tộc thiểu số.
Bốn là: Đảng bộ luôn quán triệt tư tưởng “Lấy dân làm gốc”, coi trọng sức mạnh của nhân dân; quan tâm chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Tích cực đổi mới công tác tư tưởng, vận động quần chúng; quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt chính sách dân tộc.
Năm là: Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh; làm tốt công tác đối ngoại Nhân dân
2. Một số định hướng phát triển huyện Bảo Thắng đến năm 2025, tầm nhìn đến 2030
Trên chặng đường phát triển mới, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc trong huyện Bảo Thắng tự hào về chặng đường đã đi qua. Với khát vọng vươn lên mạnh mẽ vì một Bảo Thắng phát triển nhanh và bền vững, Đại hội Đảng bộ huyện Bảo Thắng lần thứ XXVIII nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã xác định những mục tiêu lớn, không chỉ cụ thể cho 5 năm, mà cho cả tầm nhìn dài hạn để xây dựng huyện Bảo Thắng trở thành đơn vị dẫn đầu trong các huyện, thị xã của tỉnh Lào Cai. Để hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXVIII đã cụ thể hóa các mục tiêu, định hướng bằng 8 Đề án, 6 Nghị quyết chuyên đề, 02 Kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện cho cả giai đoạn 2020-2025, cụ thể.
Thứ nhất, tập trung các nguồn lực, đẩy mạnh việc triển khai thực hiện hoàn thành 24 mục tiêu nghị quyết Đại hội đảng bộ huyện khóa XXVIII đã đề ra.
Thứ hai, Về phát triển nông nghiệp, nông thôn duy trì các tiêu chí huyện nông thôn mới, phấn đấu xây dựng huyện nông thôn mới nâng cao. Nâng cao chất lượng các vùng sản xuất sản phẩm chủ lực 3 cây, 3 con theo hướng tập trung.
Thứ ba, xây dựng quy hoạch và thực hiện thật tốt quy hoạch: Hoàn thiện hạ tầng khu công nghiệp và giải quyết khó khăn vướng mắc Khu công nghiệp Tằng Lỏng; tăng cường quản lý đất đai, môi trường đối với các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp, thu hút đầu tư tiểu thủ công nghiệp.
Thứ tư, Phấn đấu xây dựng thị trấn Phố Lu đạt đô thị loại 4; hoàn thiện hạ tầng kết nối giao thông; thực hiện xây dựng trung tâm xã, thị trấn theo quy hoạch được duyệt đối với ít nhất 50% số xã, thị trấn
Thứ năm, phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng số, tạo nền tảng cho chuyển đổi số, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số, xây dựng chính quyền điện tử gắn với cải cách hành chính, tinh giản bộ máy. Phát triển công nghiệp là trụ cột, tập trung chế biến sâu các sản phẩm của huyện. Chuyển dịch mạnh sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo chuỗi, gắn với thị trường để nâng cao giá trị sản xuất và thu nhập cho khu vực nông thôn.
Với ý chí, nghị lực, đoàn kết vượt qua mọi khó khăn, thách thức, viết tiếp những trang sử mới, làm rạng rỡ thêm truyền thống của huyện Anh hùng, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước giao phó. Xây dựng Đảng bộ huyện vững mạnh để lãnh đạo, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới của Đảng, quyết tâm phấn đấu xây dựng quê hương ngày càng phát triển, giàu về kinh tế, vững mạnh về chính trị, an ninh, quốc phòng giữ vững, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, phấn đấu xây dựng Bảo Thắng là huyện dẫn đầu trong các huyện, thị xã của tỉnh Lào Cai./.